Bản sắc văn hóa – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Wed, 24 Sep 2025 00:09:17 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg Bản sắc văn hóa – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Giữ lửa tiếng Việt trong lòng Lào https://doanhnhansaoviet.com/giu-lua-tieng-viet-trong-long-lao/ Wed, 24 Sep 2025 00:09:14 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/giu-lua-tieng-viet-trong-long-lao/

Trong trái tim của thủ đô Vientiane, Lào, một gia đình nhỏ vẫn âm thầm giữ gìn và truyền lại tiếng Việt qua 4 thế hệ, như một mạch nguồn thiêng liêng không bao giờ cạn. Đó là gia đình bà Nguyễn Thị Nương, người phụ nữ gốc Việt đã 97 tuổi, cùng những nỗ lực không ngừng nghỉ để giữ gìn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt nơi xứ người.

Bà Nương sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động, cùng gia đình định cư tại Lào và xây dựng cuộc sống mới. Dù xa quê hương, sống giữa một cộng đồng đa văn hóa, nhưng trong căn nhà nhỏ của bà, tiếng Việt vẫn luôn được nói và yêu thương. “Các cháu đi học thì tự nhiên biết tiếng Lào nhưng về nhà là phải nói tiếng Việt. Bố mẹ, vợ chồng, con cái, ai cũng phải nói tiếng Việt hết. Không cho nói tiếng Lào trong nhà, thế nên các cháu không đứa nào nói ngọng. Biết hết tiếng Việt!” – bà Nương chia sẻ với giọng nói chậm rãi nhưng đầy tự hào.

Không chỉ tập trung vào việc giữ gìn ngôn ngữ, gia đình bà Nương còn kiên trì bảo tồn văn hóa Việt qua những phong tục, tập quán truyền thống. Từ những bữa ăn gia đình với lời mời “Mời ông bà, mời bố mẹ…” đến những nghi lễ cổ truyền như giỗ, Tết hay cả Tết Đoan Ngọ mồng 5/5 với tục “giết sâu bọ,” mọi tập tục đều được giữ vẹn nguyên.

Ở tuổi 97, bà Nương vẫn minh mẫn và sống trong tình yêu thương của con cháu. Con cháu bà không chỉ học được tiếng Việt mà còn học cả cách sống, cách làm người theo đúng cốt cách người Việt Nam. “Tôi gìn giữ tiếng Việt vì đó là tiếng của mẹ đẻ, của quê hương, đất nước. Xa quê hương, mình càng không thể để mất” – bà nói. Sự kiên định ấy đã được truyền lại qua các thế hệ như một mạch nguồn không bao giờ cạn.

Cháu ngoại của bà, chị Phạm Thu Hương, cũng chia sẻ về việc gia đình chị đã ở Lào 4 đời. Ông bà ngoại và cha mẹ chồng của chị là bạn chiến đấu với nhau từ thời chiến tranh. Các con chị đều nói và viết được tiếng Việt. “Muốn gìn giữ gốc tiếng Việt cho thế hệ trẻ, mọi người trong gia đình đều phải có quyết tâm lớn, giữ gìn truyền thống, phong tục và dành thời gian dài vun đắp” – chị Hương nói.

Anh Trần Viết Thanh Phong, con trai chị Hương và là chắt ngoại của bà Nương, cho biết anh biết nói tiếng Việt từ khi còn nhỏ. Ba mẹ anh dạy rằng mình là người Việt thì phải gìn giữ văn hóa và tiếng nói của người Việt. “Trong thời đại toàn cầu hóa, việc biết nhiều thứ tiếng là một lợi thế nhưng giữ được cái gốc mới là điều quan trọng nhất. Phải nhớ mình là người Việt và nói được tiếng Việt” – anh Phong chia sẻ.

Gia đình bà Nương không phải là trường hợp duy nhất nhưng là một trong những ví dụ điển hình tiêu biểu về việc gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, văn hóa và ngôn ngữ dễ dàng bị hòa tan thì việc một gia đình có 4 thế hệ sinh sống tại Lào nhưng vẫn giữ được sự tinh anh, chuẩn mực của tiếng Việt là điều vô cùng đáng quý.

Bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối tâm hồn, là nơi lưu giữ ký ức, văn hóa và cội nguồn dân tộc. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Nương ở Vientiane là một bản nhạc đẹp về tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa cội nguồn, và là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, được nuôi dưỡng bằng tình yêu và ý chí qua từng thế hệ.

]]>
Quảng Ninh: Phụ nữ chung tay bảo tồn và lan tỏa giá trị văn hóa https://doanhnhansaoviet.com/quang-ninh-phu-nu-chung-tay-bao-ton-va-lan-toa-gia-tri-van-hoa/ Thu, 18 Sep 2025 14:35:27 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/quang-ninh-phu-nu-chung-tay-bao-ton-va-lan-toa-gia-tri-van-hoa/

Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Quảng Ninh đã và đang tích cực triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững. Các hoạt động này không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc mà còn lan tỏa tinh thần sáng tạo và hành động văn minh trong thời đại số.

Hội viên phụ nữ phường Uông Bí tham gia chương trình giao lưu văn nghệ - dân vũ chào mừng kỷ niệm 24 năm Ngày Gia đình Việt Nam 28/6.
Hội viên phụ nữ phường Uông Bí tham gia chương trình giao lưu văn nghệ – dân vũ chào mừng kỷ niệm 24 năm Ngày Gia đình Việt Nam 28/6.

Từ năm 2022 đến nay, Hội LHPN Quảng Ninh đã chủ động xây dựng chương trình hành động và triển khai hiệu quả nhiều mô hình, hoạt động thiết thực. Các cấp hội phụ nữ trong tỉnh đã tăng cường tuyên truyền sâu rộng nội dung Nghị quyết 17-NQ/TU, gắn với các phong trào thi đua như ‘Xây dựng hình ảnh phụ nữ thời đại mới’, ‘Gia đình 5 không, 3 sạch’, ‘Gia đình hạnh phúc’… Qua đó, các đặc trưng con người Quảng Ninh và 6 giá trị đặc trưng của tỉnh đã được lan tỏa rộng khắp tới đông đảo cán bộ, hội viên phụ nữ toàn tỉnh.

Nhiều năm qua, mô hình "Biến rác thành tiền" của Hội LHPN phường Đông Triều được thực hiện để gây quỹ để ủng hộ cho hội viên phụ nữ và người dân có hoàn cảnh trên địa bàn.
Nhiều năm qua, mô hình “Biến rác thành tiền” của Hội LHPN phường Đông Triều được thực hiện để gây quỹ để ủng hộ cho hội viên phụ nữ và người dân có hoàn cảnh trên địa bàn.

Hội LHPN Quảng Ninh đã thành lập 23 CLB gìn giữ văn hóa truyền thống tại các xã, phường như Ba Chẽ, Bình Liêu, Tiên Yên, Đầm Hà, Uông Bí, Quảng Yên… Các sinh hoạt này vừa là nơi hội tụ văn hóa cộng đồng, vừa là ‘lớp học truyền thống’ dành cho thế hệ trẻ tại mỗi vùng quê. Bên cạnh đó, gần 2.000 mô hình, CLB văn hóa, văn nghệ – thể dục, thể thao cộng đồng đã được duy trì thường xuyên, tạo nên không gian rèn luyện sức khỏe và gắn kết phụ nữ toàn tỉnh. Các dịp 8/3, 20/10, hay những ngày lễ lớn, các cấp hội cũng tổ chức nhiều chương trình mang đậm bản sắc, như: Tuần lễ áo dài, ngày hội trang phục các dân tộc thiểu số…

Trong các dịp lễ, tết, các hoạt động quan trọng, chị em phụ nữ thường mặc trang phụ áo dài nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và lan tỏa tình yêu đối với tà áo dài.
Trong các dịp lễ, tết, các hoạt động quan trọng, chị em phụ nữ thường mặc trang phụ áo dài nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và lan tỏa tình yêu đối với tà áo dài.

Hội LHPN Quảng Ninh cũng đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sống cho hội viên, nhất là với phụ nữ dân tộc thiểu số. Nhiều hội thảo, chương trình tập huấn về tổ chức cuộc sống gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kỹ năng làm cha mẹ… đã được tổ chức rộng khắp. Hiện, 16 mô hình ‘Chăm sóc, giáo dục trẻ thơ toàn diện’ đã được thành lập tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Ngoài ra, nhiều mô hình giáo dục gia đình tiếp tục được nhân rộng, như: ‘Nuôi dạy con tốt’, ‘Ông bà gương mẫu – Con cháu thảo hiền’; tư vấn, giáo dục tiền hôn nhân, kỹ năng sống cho trẻ em gái, phòng chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em…

Các chương trình: ‘Mẹ đỡ đầu’, ‘Đồng hành cùng phụ nữ biên cương’… tiếp tục phát huy hiệu quả rõ nét. Riêng chương trình ‘Mẹ đỡ đầu’ từ năm 2022 đến nay đã hỗ trợ, đỡ đầu cho 720 trẻ mồ côi có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí vận động hơn 5 tỷ đồng. Không dừng lại ở việc gìn giữ, phụ nữ Quảng Ninh còn tiên phong trong lan tỏa giá trị văn hóa bằng nhiều cách làm sáng tạo, thích ứng với thời đại công nghệ số. Với hơn 1.000 nhóm zalo, fanpage và các nền tảng mạng xã hội của Hội Phụ nữ các cấp, hàng nghìn thông tin tích cực, câu chuyện đẹp, hình ảnh người tốt – việc tốt được lan truyền hằng ngày, trở thành kênh tuyên truyền hiệu quả, thân thiện, gần gũi với cộng đồng.

Các cuộc thi: ‘Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo phát huy tài nguyên bản địa’, ‘Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh’… khơi dậy tinh thần đổi mới, giúp nhiều sản phẩm OCOP của các cơ sở sản xuất do phụ nữ làm chủ mở rộng thị trường tiêu thụ. Hiện nay, tổng dư nợ ủy thác Ngân hàng CSXH do Hội Phụ nữ quản lý đạt hơn 2.480 tỷ đồng, cao nhất trong các tổ chức chính trị – xã hội, hỗ trợ trên 35.500 hộ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững.

Hội Phụ nữ các cấp còn đẩy mạnh phong trào thi đua ‘Xây dựng hình ảnh người phụ nữ Quảng Ninh thời đại mới có tri thức, đạo đức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, văn minh, thân thiện’ gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội viên phụ nữ thực hiện tốt hương ước, quy ước, nếp sống văn minh nơi công sở và địa phương nơi cư trú; tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam: ‘Tự tin – Tự trọng – Trung hậu – Đảm đang’.

Trong thời gian tới, Hội LHPN Quảng Ninh sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế; quán triệt và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhất là ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

]]>
Lệ Sơn – Điểm đến du lịch cộng đồng kiểu mẫu mang đậm bản sắc văn hóa Việt https://doanhnhansaoviet.com/le-son-diem-den-du-lich-cong-dong-kieu-mau-mang-dam-ban-sac-van-hoa-viet/ Thu, 04 Sep 2025 06:20:16 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/le-son-diem-den-du-lich-cong-dong-kieu-mau-mang-dam-ban-sac-van-hoa-viet/

Lệ Sơn – Một vùng quê nằm giữa Trường Sơn hùng vĩ và dòng Gianh trầm mặc, vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên, kiến trúc truyền thống, và những giá trị văn hóa – lịch sử phong phú. Với lợi thế về ga đường sắt, cảnh sắc mộc mạc của làng quê, lũy tre, nhà rường, giếng cổ, cùng với sinh kế nông nghiệp và đặc sản bản địa như con chắt chắt sông Gianh, Lệ Sơn sở hữu những nguồn lực mà nhiều nơi khác phải ao ước.

Hoạt động cộng đồng như câu lạc bộ dân vũ đa thế hệ hay nghề trồng mè, trồng đậu, trồng bắp, nuôi gia súc gia cầm… tại Lệ Sơn có thể trở thành sản phẩm du lịch độc đáo gắn với trải nghiệm thực tế và giáo dục văn hóa, sinh thái nếu được kết nối khéo léo. Lệ Sơn có đầy đủ nền tảng để trở thành hình mẫu cho hướng đi này, với không gian đậm chất làng, con người mộc mạc mà kiên cường, văn hóa giàu bản sắc và cảnh quan chưa bị xâm lấn, pha tạp.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu tài nguyên, mà ở chỗ chưa có sự phối hợp bài bản giữa chính quyền, cộng đồng và các nhà chuyên môn để xây dựng mô hình du lịch dựa vào bản sắc, nuôi sống ký ức làng quê bằng hơi thở của kinh tế sáng tạo. Sự phối hợp này sẽ giúp Lệ Sơn không chỉ giữ gìn những giá trị truyền thống mà còn phát triển du lịch một cách bền vững.

Khi du lịch được phát triển đúng cách, nó sẽ không phá vỡ nếp làng, mà trở thành động lực để người dân giữ gìn những gì đáng quý; không đơn thuần tạo thu nhập, mà còn khơi dậy niềm tự hào về nơi chốn đã sinh ra họ. Lệ Sơn không chỉ hiện diện trên bản đồ du lịch Việt Nam, mà còn tỏa sáng như một biểu tượng của sự phát triển hài hòa giữa “bản sắc – sinh kế – con người”, thích nghi hoàn toàn với môi trường tự nhiên, tạo nên du lịch cộng đồng đa giá trị.

Với những tiềm năng và lợi thế sẵn có, Lệ Sơn hoàn toàn có thể trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách muốn khám phá văn hóa, lịch sử và cảnh quan tự nhiên. Việc phát triển du lịch tại đây sẽ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho người dân địa phương mà còn góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa – lịch sử quý báu của vùng quê này.

Để đạt được mục tiêu này, cần có sự tham gia và hỗ trợ của chính quyền, cộng đồng và các nhà chuyên môn. Sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển, giữa giữ gìn bản sắc và đón nhận sự thay đổi sẽ giúp Lệ Sơn phát triển du lịch một cách bền vững, đồng thời giữ gìn được những giá trị quý báu của vùng quê này.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Thu, 28 Aug 2025 15:10:58 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Phim của đạo diễn gốc Việt được công chiếu ở Karlovy Vary https://doanhnhansaoviet.com/phim-cua-dao-dien-goc-viet-duoc-cong-chieu-o-karlovy-vary/ Mon, 11 Aug 2025 20:51:34 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/phim-cua-dao-dien-goc-viet-duoc-cong-chieu-o-karlovy-vary/

Bộ phim “Trường Hè 2001” hay “Letní škola, 2001” trong tiếng Séc, đã chính thức ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary vào ngày 8/7 vừa qua. Đây là phim đầu tiên của dòng “viet-film” trong lịch sử điện ảnh Séc. Tác phẩm này không chỉ mang tính tự truyện sâu sắc mà còn là tiếng nói mạnh mẽ và chân thực của thế hệ người Việt lớn lên tại Séc, một cộng đồng từng bị lặng tiếng trong đời sống điện ảnh chính thống.



Đạo diễn gốc Việt Dužan Duong (trái) và diễn viên Bùi Thế Dương.

Đạo diễn gốc Việt Dužan Duong (trái) và diễn viên Bùi Thế Dương.

“Trường Hè 2001” lấy bối cảnh mùa Hè năm 2001 tại một chợ sầm uất ở Cheb, xoay quanh câu chuyện của Kiên, một thiếu niên 17 tuổi với mái tóc đỏ nổi bật sau khi trở về từ Việt Nam sau 10 năm xa nhà. Bộ phim sử dụng cấu trúc kể chuyện đa góc nhìn kiểu Rashomon, theo chân ba nhân vật: Người cha Zung, đứa trẻ Tài và thiếu niên Kiên. Mỗi góc nhìn mang màu sắc và nhịp điệu riêng từ mafia đến hài hước tuổi teen và nội tâm giằng xé từ sự pha trộn văn hóa. Qua hoạt động như ủi Pokémon lên áo phông, học tiếng Séc và hẹn hò tuổi teen bên hồ, những bí mật dần lộ diện và ảnh hưởng đến cả cộng đồng đang sống quanh khu chợ.

Là người Việt sinh ra và lớn lên tại Séc, đạo diễn Dužan Duong không chỉ là người kể chuyện, anh là một phần của chính câu chuyện đó. Tác phẩm mang đậm yếu tố tự truyện, phản ánh trải nghiệm của một đứa trẻ trong gia đình nhập cư, nơi cha mẹ vắng mặt vì mưu sinh, nơi ngôn ngữ mẹ đẻ dần phai mờ, và nơi bản sắc cá nhân luôn ở trạng thái lưng chừng.

“Trường Hè 2001” không chỉ là một bộ phim, đó còn là một cánh cửa. Nó mở ra không gian cho những câu chuyện từng bị xem là “ngoại biên,” cho những con người từng bị gọi là “di dân” và cho những cảm xúc mà trước nay ít ai dám kể bằng điện ảnh. Bộ phim là ký ức tập thể của hàng chục ngàn gia đình người Việt từng và đang sống tại châu Âu.

Với sự tiếp nhận của khán giả, “Trường Hè 2001” là cơ hội để thông điệp nhân văn của bộ phim được lan tỏa rộng hơn. Và điều mà bộ phim muốn hướng tới không gì khác đó chính là giá trị của gia đình trong đời sống của người Việt tại Cộng hòa Séc. Câu chuyện về bản sắc, gia đình, sự hòa nhập và mất mát là những chủ đề phổ quát mà bất kỳ khán giả nào cũng có thể thấu cảm.

]]>
Điện Biên Phát Huy Di Sản Văn Hóa Để Phát Triển Du Lịch Bền Vững https://doanhnhansaoviet.com/dien-bien-phat-huy-di-san-van-hoa-de-phat-trien-du-lich-ben-vung/ Fri, 25 Jul 2025 01:03:27 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/dien-bien-phat-huy-di-san-van-hoa-de-phat-trien-du-lich-ben-vung/

Điện Biên – vùng đất với thiên nhiên hùng vĩ, lịch sử cách mạng hào hùng, bản sắc văn hóa các dân tộc đặc sắc, khí hậu trong lành, là nơi hội tụ tinh hoa của vùng Tây Bắc. Với nhiều tiềm năng, lợi thế, tỉnh Điện Biên đang nỗ lực phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

 Điện Biên - điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút - ảnh 2
Điện Biên – điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút – ảnh 2

Điện Biên là phên giậu vững chắc của vùng Tây Bắc, nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên đã có nhiều đóng góp to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. Với 19 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa riêng rất độc đáo, tạo nên bức tranh văn hóa các dân tộc Điện Biên đa dạng và phong phú.

Điện Biên có 19 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa riêng rất độc đáo, tạo nên bức tranh văn hóa các dân tộc đa dạng và phong phú
Điện Biên có 19 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa riêng rất độc đáo, tạo nên bức tranh văn hóa các dân tộc đa dạng và phong phú

Cách đây 71 năm, Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ‘Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu’ góp phần quyết định vào thắng lợi hoàn toàn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược. Những giá trị to lớn của quần thể Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ, với 46 điểm di tích thành phần là di tích có giá trị, vai trò đặc biệt quan trọng, là biểu tượng của truyền thống lịch sử vẻ vang, hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.

 Điện Biên - điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút - ảnh 5
Điện Biên – điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút – ảnh 5

Cùng bản sắc văn hóa của 19 dân tộc và danh lam thắng cảnh hùng vĩ, mang vẻ đẹp riêng đã và đang góp phần hình thành sản phẩm du lịch chủ đạo, mang đặc trưng của tỉnh Điện Biên. Đặc biệt, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên về phát triển du lịch Điện Biên đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã đề ra mục tiêu du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, điểm du lịch hấp dẫn của khu vực Tây Bắc và cả nước.

 Điện Biên - điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút - ảnh 7
Điện Biên – điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút – ảnh 7

Tỉnh Điện Biên đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc, khác biệt và có khả năng cạnh tranh, hướng tới phát triển du lịch bền vững. Trong năm 2025, với hàng loạt các sự kiện tiêu biểu được tổ chức như Lễ hội Hoa Ban năm 2025 và Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc tỉnh Điện Biên lần thứ 8; show diễn thực cảnh ‘Huyền tích Uva’; Lễ hội Hoa Anh Đào, Lễ hội Thành Bản Phủ; Liên hoan Nghệ thuật Xòe Thái… với nhiều hoạt động đặc sắc đã thu hút đông đảo du khách.

 Điện Biên - điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút - ảnh 4
Điện Biên – điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút – ảnh 4

Để ngành ‘công nghiệp không khói’ ngày càng phát triển, tỉnh Điện Biên đã chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc gắn với phát triển du lịch; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế về du lịch lịch sử – tâm linh; du lịch bản sắc văn hóa dân tộc, khám phá cảnh quan thiên nhiên; du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, chăm sóc sức khỏe, du lịch mạo hiểm, thể thao khám phá, du lịch làng nghề.

 Điện Biên - điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút - ảnh 6
Điện Biên – điểm đến du lịch văn hóa, lịch sử giàu sức hút – ảnh 6

Tỉnh Điện Biên hiện có 22 di sản đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong đó, 2 di sản ‘Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam’ và di sản ‘Nghệ thuật xòe Thái’ được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Hệ thống di sản văn hóa vật thể của tỉnh Điện Biên gắn với điều kiện địa lý, tự nhiên, với đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. Mỗi nếp nhà, mỗi phong tục của các dân tộc đã góp phần làm nên một Điện Biên giàu bản sắc.

Để đưa ngành ‘công nghiệp không khói’ ngày càng phát triển gắn với bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa, tỉnh Điện Biên cần xây dựng và định vị thương hiệu du lịch địa phương bằng các sản phẩm du lịch độc đáo, gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc ở Điện Biên. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng giao thông, hạ tầng du lịch gắn với việc bảo tồn các giá trị tài nguyên thiên nhiên, lưu giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc.

Với hành trang Chiến thắng Điện Biên Phủ ‘lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu’ và những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc, Điện Biên đang từng bước hiện thực hóa khát vọng trở thành một trong những trung tâm du lịch hấp dẫn của khu vực Tây Bắc và cả nước.

]]>
Bảo tồn văn hóa Khmer ở miền Tây: Giữ gìn bản sắc cho thế hệ mai sau https://doanhnhansaoviet.com/bao-ton-van-hoa-khmer-o-mien-tay-giu-gin-ban-sac-cho-the-he-mai-sau/ Mon, 21 Jul 2025 03:35:22 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/bao-ton-van-hoa-khmer-o-mien-tay-giu-gin-ban-sac-cho-the-he-mai-sau/

Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, hơn 100 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã chứng kiến nhiều bước tiến đáng kể trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Nhờ sự nỗ lực của người dân và sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của Trung ương, địa phương, đời sống văn hóa của bà con đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, văn hóa Khmer ở đây đã trở thành nét bản sắc của vùng đất, với nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống được phục hồi và phát triển.

Đời sống ngày càng được nâng cao là điều kiện thuận lợi để đồng bào Khmer thụ hưởng văn hóa tinh thần tốt hơn. Nhiều lễ hội văn hóa, nghi thức tôn giáo đã được gìn giữ và trở thành các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo. Ví dụ như Lễ Chôl Chnaam Thmây (mừng năm mới), Sen Đôn-ta (lễ cúng ông bà), Oóc Om Bóc (lễ cúng trăng), lễ nhập hạ, xuất hạ… Các lễ hội này không chỉ thu hút người dân địa phương mà còn thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến theo dõi và cổ vũ.

Lễ hội đua ghe ngo (thành phố Cần Thơ), đua bò truyền thống (tỉnh An Giang) là những sự kiện văn hóa đặc sắc, thể hiện sức sống mãnh liệt của văn hóa Khmer. Những ngôi chùa với kiến trúc nghệ thuật đặc sắc cũng là điểm đến thu hút nhiều du khách. Tại các ngôi chùa Khmer, du khách có thể tìm hiểu về các tập tục được gìn giữ bao đời nay, như Lễ dâng cơm, Lễ Kathina (Lễ dâng y cà sa), tục gửi con vào chùa tu học giáo lý Phật pháp, học làm người…

Văn hóa Khmer Nam Bộ từ lâu đã trở thành nét bản sắc của vùng đất Cần Thơ. Với sự độc đáo và giá trị văn hóa đặc sắc, đây chính là nguồn tài nguyên quý báu để phát triển loại hình du lịch văn hóa, góp phần đưa Cần Thơ trở thành một trong những điểm đến nổi bật của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Ông Lâm Hoàng Mẫu, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo thành phố Cần Thơ, cho biết mỗi ngôi chùa Khmer đều là nơi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào tại địa phương. Đây không chỉ là nơi lưu giữ giá trị tâm linh mà còn là trung tâm văn hóa, nghệ thuật độc đáo.

Thời gian qua, các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam Bộ đã thực hiện nhiều chính sách chăm lo đời sống của đồng bào dân tộc Khmer, trong đó đặc biệt quan tâm bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Điều này đã góp phần tạo cơ hội cho người dân địa phương tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống và giữ gìn bản sắc văn hóa cho thế hệ mai sau.

Tuy nhiên, các thiết chế văn hóa – thể thao, trang thiết bị hỗ trợ sinh hoạt văn nghệ, thể thao ở các xã vùng đồng bào dân tộc Khmer vẫn chưa hoàn thiện. Nhiều loại hình văn hóa dân gian của đồng bào dân tộc Khmer đang có dấu hiệu bị lãng quên.

Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer, các cấp, các ngành cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Cần đẩy mạnh đào tạo nhân lực nòng cốt trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc Khmer, đề cao vai trò của các sư sãi, nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng.

]]>