Dân tộc thiểu số – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Wed, 01 Oct 2025 12:49:47 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg Dân tộc thiểu số – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Bộ Công an hoàn thành chương trình xây 6.370 căn nhà cho đồng bào Tây Nguyên https://doanhnhansaoviet.com/bo-cong-an-hoan-thanh-chuong-trinh-xay-6-370-can-nha-cho-dong-bao-tay-nguyen/ Wed, 01 Oct 2025 12:49:38 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/bo-cong-an-hoan-thanh-chuong-trinh-xay-6-370-can-nha-cho-dong-bao-tay-nguyen/

Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát tại Tây Nguyên do Bộ Công an triển khai đã đạt được những kết quả rất đáng trân trọng. Sau một thời gian thực hiện, chương trình đã xây mới và sửa chữa 6.370 căn nhà cho đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ ổn định cuộc sống và an cư lạc nghiệp.

Gia đình chị Y Lan (xã Đăk Rơ Wa, tỉnh Quảng Ngãi) vui mừng về nhà mới do Bộ Công an hỗ trợ kinh phí xây dựng. Ảnh: Ngọc Thu
Gia đình chị Y Lan (xã Đăk Rơ Wa, tỉnh Quảng Ngãi) vui mừng về nhà mới do Bộ Công an hỗ trợ kinh phí xây dựng. Ảnh: Ngọc Thu

Chương trình này được triển khai với sự hỗ trợ của các doanh nghiệp, với tổng kinh phí lên đến 355 tỷ đồng. Riêng tại tỉnh Kon Tum (nay là một phần của tỉnh Quảng Ngãi), Bộ Công an đã vận động các doanh nghiệp tài trợ 84 tỷ đồng để xóa 1.400 căn nhà tạm, nhà dột nát. Sự hỗ trợ này đã mang lại niềm vui và hy vọng cho nhiều gia đình.

Thiếu tá Lê Đình Hải, Phó trưởng Công an xã Ia Pa ủng hộ kinh phí hỗ trợ xây nhà ở cho bà H’Quế, 75 tuổi, người Gia Rai ở xã Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Ảnh: Ngọc Thu
Thiếu tá Lê Đình Hải, Phó trưởng Công an xã Ia Pa ủng hộ kinh phí hỗ trợ xây nhà ở cho bà H’Quế, 75 tuổi, người Gia Rai ở xã Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Ảnh: Ngọc Thu

Chị Y Lan, cư dân làng Kon Jri Xút, xã Đăk Rơ Wa, tỉnh Quảng Ngãi, chia sẻ: “Trước đây, ngôi nhà của gia đình tôi rất cũ và dột nát, mỗi khi mưa xuống đều khiến cả nhà lo lắng. Nhưng nhờ có sự hỗ trợ từ Nhà nước, giờ đây chúng tôi đã có một ngôi nhà mới, cuộc sống trở nên thoải mái hơn rất nhiều. Các con tôi cũng rất vui mừng và yên tâm khi có một không gian sống tốt hơn để phát triển.”

Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Thế Tùng (thứ 5 từ phải sang) cùng lãnh đạo các tỉnh trao chìa khóa tượng trưng và quà của Bộ trưởng Bộ Công an cho đại diện các hộ gia đình. Ảnh: Ngọc Thu
Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Thế Tùng (thứ 5 từ phải sang) cùng lãnh đạo các tỉnh trao chìa khóa tượng trưng và quà của Bộ trưởng Bộ Công an cho đại diện các hộ gia đình. Ảnh: Ngọc Thu

Lực lượng công an đã đóng vai trò quan trọng trong chương trình này. Thiếu tá Lê Đình Hải, Phó trưởng Công an xã Ia Pa, tỉnh Gia Lai, đã tích cực đóng góp kinh phí và công sức để xây dựng, sửa chữa nhà ở cho nhiều trường hợp có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Bộ Công an và các tỉnh Gia Lai, Quảng Ngãi, Lâm Đồng đã tổ chức tổng kết chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn Tây Nguyên. Thượng tướng Phạm Thế Tùng, Thứ trưởng Bộ Công an, đã biểu dương lực lượng công an 3 tỉnh đã nỗ lực không ngừng để hoàn thành khối lượng công việc rất lớn, bàn giao nhà cho các hộ dân vượt tiến độ.

Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát đã mang lại hạnh phúc và sự ổn định cho hàng nghìn hộ gia đình người dân khu vực Tây Nguyên, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là một món quà ý nghĩa và thiết thực mà lực lượng Công an nhân dân gửi tặng các hộ dân có hoàn cảnh khó khăn, thể hiện sự quan tâm và chăm sóc của Đảng và Nhà nước đối với đời sống của nhân dân.

]]>
“Mở lớp học xóa mù chữ cho phụ nữ dân tộc thiểu số vùng cao” https://doanhnhansaoviet.com/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-vung-cao/ Wed, 24 Sep 2025 14:06:23 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-vung-cao/

Ở các xã vùng cao như Bao La, Tân Pheo, Đà Bắc, những lớp học đặc biệt được tổ chức sau mỗi mùa gặt, thu hút vài chục phụ nữ dân tộc Mường, Dao, Thái tham gia. Họ ngồi cùng nhau, chăm chú lắng nghe giáo viên giảng dạy về từng nét chữ đầu tiên. Đây là những lớp “giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ”, một phần trong nỗ lực xóa mù chữ và nâng cao năng lực học tập cộng đồng do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình phối hợp tổ chức.

Từ năm 2020 đến nay, đã có 6 lớp như vậy được mở, với 125 học viên, 100% là nữ và là người dân tộc thiểu số. Họ đến lớp không vì điểm số, không vì bằng cấp mà vì một điều giản dị: Biết đọc tên mình, biết viết đơn xin vay vốn, hiểu những dòng chữ in trên bao thuốc trừ sâu hay đơn khám bệnh.

Bà Hà Thị Nhung, người dân tộc Thái ở xã Bao La, đã bắt đầu một hành trình mới – học chữ ở tuổi ngũ tuần. Trước kia, mỗi lần đi trạm y tế hay nhận hỗ trợ, bà đều phải nhờ người khác điền giúp giấy tờ. Có khi, cán bộ bảo ký tên, bà chỉ biết cười trừ, đưa ngón tay ra lăn dấu. “Tôi xấu hổ lắm. Đến tên mình cũng không viết nổi”, bà Nhung chia sẻ.

Cơ hội đến khi Trung tâm học tập cộng đồng xã Bao La mở lớp học sau biết chữ vào buổi tối, tranh thủ khi người dân đã thu hoạch xong mùa vụ. Lớp học nhỏ, chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và những cuốn vở đã ngả màu theo tay học viên. Nhưng với bà Nhung, đó là thế giới khác – nơi bà bắt đầu nhận diện lại chính mình qua từng con chữ.

Tính đến nay, các xã khu vực Hòa Bình cũ đạt tỷ lệ nữ biết chữ là 99,81%, trong đó nữ dân tộc thiểu số và miền núi đạt 99,64% – vượt xa mục tiêu 93% được đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Đây không chỉ là một thành tích trong lĩnh vực giáo dục mà còn là kết quả của quá trình kiên trì xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ và xây dựng mô hình học tập cộng đồng bền vững.

Tuy nhiên, biết chữ không đơn thuần là đích đến mà là điểm khởi đầu cho một hành trình dài hơi – hành trình trao quyền, xây dựng năng lực tự chủ cho người phụ nữ. “Khi người phụ nữ biết đọc, biết viết, họ có thể tiếp cận thông tin, hiểu quyền lợi, chủ động trong kinh tế gia đình và chăm sóc con cái. Quan trọng hơn, họ trở thành người truyền cảm hứng học tập trong bản làng, nơi mà việc cầm bút, đi học với phụ nữ từng là điều xa lạ, thậm chí bị cho là ‘không cần thiết'” – Ông Trần Văn An – Trưởng Phòng Giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.

Dù kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, nhưng thực tế ở các xã vùng cao vẫn đặt ra không ít thách thức. Ở một số địa bàn đặc biệt khó khăn, việc duy trì kết quả sau xóa mù chữ chưa thật sự ổn định. Nhiều phụ nữ lớn tuổi quanh năm bám nương, ít có điều kiện tiếp cận thông tin vẫn đang đối mặt nguy cơ tái mù.

Những bước đi căn cơ đang dần được triển khai để đảm bảo “biết chữ” không chỉ là thành tích mà phải là nền móng cho sự phát triển. Từ năm 2025, Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình được giao nhiệm vụ đưa các nội dung về giới, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vào chương trình đào tạo giáo viên. Cùng với đó, các trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở cũng đang được mở rộng vai trò. Từ chỗ chỉ dạy chữ sang hướng dẫn kỹ năng sản xuất, sử dụng công nghệ số, khởi nghiệp tại chỗ… Đây là bước đi cho thấy chương trình xoá mù, nâng cao năng lực cộng đồng không chỉ truyền đạt con chữ, mà còn giúp thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số.

Tìm hiểu thêm về chương trình xóa mù chữ tại Việt Nam và các nỗ lực để nâng cao năng lực học tập cộng đồng.

]]>
Đắk Lắk: Thưởng thức miễn phí món ăn độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số https://doanhnhansaoviet.com/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/ Fri, 19 Sep 2025 08:49:56 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/

Ngày 26-7, tại xã Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk, đã diễn ra sôi nổi hội thi nấu ăn với các món ăn truyền thống của người đồng bào dân tộc thiểu số. Sự kiện này được tổ chức nhằm chào mừng 78 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27-7), thể hiện sự tri ân và tưởng nhớ sâu sắc đến những người đã hy sinh và đóng góp cho Tổ quốc.

Đây là hoạt động thiết thực, không chỉ thể hiện sự quan tâm của cộng đồng đối với những người đã hy sinh mà còn là dịp để các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk giao lưu, đoàn kết và thể hiện bản sắc văn hóa của mình. Các món ăn được chế biến theo phương pháp truyền thống, mang lại hương vị đặc trưng và phong phú của từng dân tộc.

Thông qua hội thi nấu ăn, người dân địa phương và du khách có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu sâu sắc hơn về phong tục tập quán, cũng như sự đa dạng văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Sự kiện này cũng là một phần trong nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số, góp phần xây dựng một xã hội đa dạng nhưng đoàn kết và phát triển.

Các món ăn truyền thống được trình bày và giới thiệu tại hội thi là cơ hội để mọi người khám phá sự phong phú và đa dạng của ẩm thực các dân tộc thiểu số. Từ những nguyên liệu đặc trưng đến kỹ thuật chế biến độc đáo, mỗi món ăn đều là một câu chuyện về văn hóa và lịch sử của từng cộng đồng.

Để chuẩn bị cho hội thi, các đội tham gia đã chuẩn bị kỹ lưỡng, từ việc lựa chọn nguyên liệu đến thực hiện các bước chế biến. Không chỉ dừng lại ở việc nấu ăn, sự kiện này còn là dịp để các đội tham gia giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và tăng cường sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk.

Trong bối cảnh đa dạng văn hóa và hội nhập quốc tế, các hoạt động như hội thi nấu ăn truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa và quảng bá bản sắc dân tộc. Chúng không chỉ là cầu nối giữa các cộng đồng mà còn góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội Việt Nam đa dạng nhưng đoàn kết và văn minh.

]]>
Sơn La đẩy mạnh du lịch bền vững: Nâng cao chất lượng dịch vụ và thu nhập cộng đồng https://doanhnhansaoviet.com/son-la-day-manh-du-lich-ben-vung-nang-cao-chat-luong-dich-vu-va-thu-nhap-cong-dong/ Mon, 15 Sep 2025 11:49:36 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/son-la-day-manh-du-lich-ben-vung-nang-cao-chat-luong-dich-vu-va-thu-nhap-cong-dong/

Tỉnh Sơn La đã và đang tích cực triển khai Phong trào thi đua ‘Sơn La phát triển du lịch bền vững và hội nhập’ giai đoạn 2023-2025. Với tiềm năng và lợi thế về tự nhiên và văn hóa, du lịch đang trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.

anh tin bai
anh tin bai

Trong thời gian qua, cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh Sơn La đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để đảm bảo tình hình an ninh trong lĩnh vực du lịch. Tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo, kế hoạch hành động để triển khai hiệu quả Phong trào thi đua. Đến nay, 100% cơ quan, đơn vị và địa phương đã xây dựng kế hoạch và phát động thi đua lồng ghép hiệu quả với các phong trào, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực.

Công tác tuyên truyền phổ biến nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng của phát triển du lịch được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, thường xuyên và liên tục. Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được triển khai hiệu quả dưới nhiều hình thức như: Trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, ấn phẩm, các cuộc thi, các cuộc khảo sát đánh giá sản phẩm du lịch… Tỉnh đã tổ chức nhiều sự kiện du lịch nhằm xúc tiến, quảng bá và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, đối ngoại, thu hút đầu tư.

Nhiều sản phẩm du lịch được hình thành, phát triển gắn với sinh thái, nông nghiệp và văn hóa bản địa đã đáp ứng xu thế, nhu cầu của khách du lịch. Sơn La hiện có 15 khu du lịch, điểm du lịch đã được công nhận, bao gồm 1 khu du lịch quốc gia, 1 khu du lịch cấp tỉnh và 13 điểm du lịch cấp tỉnh. Tỉnh Sơn La đang tiếp tục đẩy mạnh phát triển du lịch, hướng đến mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, nâng cao dân trí, tạo việc làm, giảm nghèo nhanh và bền vững.

]]>
Lâm Đồng: Bảo tồn văn hóa M’Nông gắn với du lịch bền vững https://doanhnhansaoviet.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/ Sat, 30 Aug 2025 07:40:38 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/

Ở xã biên giới Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng, một mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với du lịch đã được triển khai. Mục tiêu của mô hình là đánh thức niềm tự hào và biến di sản thành tài sản, hướng tới phát triển bền vững. Người M’Nông sở hữu một kho tàng văn hóa phong phú, với những phong tục tập quán được gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST
Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST

TS. Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam, cho biết rằng sự thay đổi phương thức sản xuất, chuyển đổi cây trồng và quá trình hội nhập văn hóa đương đại đã tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa của người M’Nông. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, cần kiểm kê và số hóa để lưu giữ; và thực hiện truyền dạy, kết nối thế hệ, qua đó giúp mạch nguồn truyền thống được duy trì, phát triển một cách bền vững hơn.

Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST
Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST

Mô hình bảo tồn và phát huy văn hóa M’Nông đã được ra mắt vào ngày 28/6 vừa qua. Dự án nằm trong khuôn khổ dự án 06 ‘Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch’ thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024 trên địa bàn huyện biên giới Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông (cũ), nay là xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng.

Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST
Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST

Dự án đã tổ chức truyền dạy cồng chiêng, múa, ẩm thực truyền thống, dệt thổ cẩm, đan lát và quy trình làm rượu cần tại cộng đồng bon Bu N’Drung. Các buổi tập huấn chuyên sâu với sự tham gia của các chuyên gia về di sản văn hóa các dân tộc, kỹ năng thực hiện bảo tồn và phát triển văn hóa trên địa bàn, ‘đánh thức’ khả năng trình diễn nghệ thuật dân gian, phát triển du lịch bằng cách ‘biến di sản thành tài sản’, tạo sinh kế cho cộng đồng một cách bền vững.

Mô hình đã được bàn giao cho chính quyền xã Tuy Đức mới để tiếp tục vận hành và phát huy, có chương trình kết nối các doanh nghiệp, cơ sở giáo dục địa phương; tạo liên kết gắn với các điểm du lịch – tài nguyên tự nhiên và nhân văn trên địa bàn. Đồng thời, kết nối với các tour-tuyến giới thiệu Nhà văn hóa cộng đồng, không gian trưng bày ‘Hội tụ sắc màu văn hóa truyền thống M’Nông’ và không gian nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng, dân ca, dân vũ; cùng trải nghiệm ẩm thực ‘hương vị rừng, hương vị suối’… để trở thành điểm đến hấp dẫn.

Với mong muốn biến di sản thành tài sản, mô hình này không chỉ gắn kết du lịch với phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho địa phương, mà còn nâng cao ý thức của người dân về vốn giá trị truyền thống, bảo tồn các giá trị văn hóa M’Nông, và tăng cường sự kết nối cộng đồng.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Thu, 28 Aug 2025 15:10:58 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Nâng cao tỷ lệ tiêm chủng cho người dân vùng cao Sơn La https://doanhnhansaoviet.com/nang-cao-ty-le-tiem-chung-cho-nguoi-dan-vung-cao-son-la/ Thu, 21 Aug 2025 22:07:02 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nang-cao-ty-le-tiem-chung-cho-nguoi-dan-vung-cao-son-la/

Ở vùng cao hiểm trở của Việt Nam, tỉnh Sơn La đang phải đối mặt với một thách thức lớn trong việc đảm bảo trẻ em được tiêm chủng đầy đủ. Không chỉ khoảng cách địa lý khó khăn, mà còn có những e ngại và hiểu lầm tồn tại từ lâu trong cộng đồng. Trước tình hình này, dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn tỉnh Sơn La’ đã được triển khai từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2025. Dự án này là sự hợp tác giữa CDC Sơn La, PATH và Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, với mục tiêu tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn.

Nâng cao sức khỏe bà mẹ, trẻ em: Khi trưởng bản, hội phụ nữ 'gõ cửa từng nhà' vận động tiêm chủng- Ảnh 3.
Nâng cao sức khỏe bà mẹ, trẻ em: Khi trưởng bản, hội phụ nữ ‘gõ cửa từng nhà’ vận động tiêm chủng- Ảnh 3.

Dự án đã tạo ra một hướng đi mới trong việc tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn. Bằng cách trao quyền và kết nối các lực lượng xã hội, dự án đã tạo nên những thay đổi đáng kinh ngạc từ chính những con người gần gũi nhất với cộng đồng. Tại xã Ngọc Chiến, tỉnh Sơn La, nơi đa số là người dân tộc Mông, nhiều phụ nữ vẫn chưa đưa con đi tiêm đầy đủ vì thiếu thông tin. Chị Lèo Thị Đẹm, Chi hội trưởng Phụ nữ xã, đã nhận ra rằng một buổi nói chuyện riêng về y tế khó thu hút các chị em đang bận rộn việc nương rẫy, con nhỏ.

Cán bộ Trạm Y tế xã Ngọc Chiến khám bệnh cho người dân.
Cán bộ Trạm Y tế xã Ngọc Chiến khám bệnh cho người dân.

Từ đó, chị Lèo Thị Đẹm đã mạnh dạn thay đổi, lồng ghép khoảng 30 phút nói chuyện tiêm chủng vào các buổi sinh hoạt định kỳ. Chị không chỉ nói về lợi ích vắc xin mà còn chia sẻ về tình hình dịch bệnh thực tế như uốn ván sơ sinh vẫn còn xuất hiện tại địa phương. Để tăng sức hút, chị phối hợp với cán bộ y tế tổ chức đo huyết áp, phát thuốc tẩy giun. Kết quả, chỉ trong tháng đầu tiên tham gia truyền thông, chị đã tổ chức 7 buổi truyền thông (5 nhóm, 2 cá nhân), góp phần tăng tỷ lệ khám thai, tiêm uốn ván và nâng tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ tại xã.

Đến tháng 6/2025, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ tại xã Ngọc Chiến đạt 48,6% – gấp 4 lần so với 10,9% cùng kỳ năm 2024. Không chỉ tại xã Ngọc Chiến, nhiều Chi hội Phụ nữ ở các xã khác cũng đã tham gia rất tích cực đưa truyền thông tiêm chủng vào hoạt động thường xuyên, cho thấy đây thực sự là một nhiệm vụ phù hợp với vai trò và thế mạnh sẵn có của họ.

Còn tại xã Phiêng Cằm, một xã khu vực III của huyện Mai Sơn (cũ), trước thời điểm sáp nhập với xã Chiềng Nơi thành xã Phiêng Cằm (mới) hiện nay, đây là nơi cư trú của khoảng 1.506 hộ, trên 8.000 nhân khẩu thuộc 5 thành phần dân tộc (Mông, Khơ Mú, Thái, Dao, Kinh). Nằm cách Trung tâm Y tế khu vực gần 86km, bản Phiêng Phụ là nơi sinh sống của 11 hộ đồng bào người Thái và hơn 100 hộ người Mông. Người dân nơi đây phần lớn không thạo tiếng phổ thông, khiến việc tiếp cận thông tin y tế gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ trẻ em được tiêm đầy đủ luôn ở mức thấp dưới 50%.

Đây là điều trăn trở nhiều năm của ông Vàng A Nếnh – Trưởng bản Phiêng Phụ. Trước đây, ông nghĩ tiêm chủng là trách nhiệm của cán bộ y tế. Nhưng sau khi được tập huấn về kỹ năng truyền thông và phối hợp liên ngành trong tiêm chủng, ông nhận ra vai trò quan trọng của mình trong cộng đồng. Ban đầu, ông phối hợp cùng nhân viên y tế và đoàn thể tổ chức họp bản để truyền thông, nhưng những hộ gia đình còn e ngại nhất lại không tham gia.

Ông chuyển hướng sử dụng loa bản để phát thông điệp đơn giản bằng tiếng Mông (do dự án cung cấp), rồi tự mình đến từng nhà để lắng nghe, giải thích về lợi ích và độ an toàn của vắc xin. Có nhà ông phải đến ba lần mới thuyết phục được. Nhờ kiên trì, cả 8 hộ ban đầu do dự đã đồng ý tiêm đầy đủ cho con. Hiện vẫn còn 15–16 hộ trong bản cần nhắc nhiều lần mới đưa con đi tiêm. Ông Nếnh dự định tiếp tục phối hợp Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên để lồng ghép tiêm chủng vào sinh hoạt cộng đồng, giúp duy trì và nâng cao nhận thức chung của bà con trong bản.

Đồng thời, ông cũng sẵn sàng đến từng nhà vận động nếu cần – quyết tâm không để trẻ nào không được tiếp cận với tiêm chủng. Thành công của dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn tỉnh Sơn La’ không phải là những câu chuyện đơn lẻ, mà là kết quả của một mô hình phối hợp chặt chẽ, trong đó Trạm Y tế xã giữ vai trò điều phối, hỗ trợ kỹ thuật, ‘cầm tay chỉ việc’ để các lực lượng xã hội tự tin truyền thông đúng và hiệu quả.

Trưởng bản, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên là những ‘cánh tay nối dài’ không thể thiếu. Họ có uy tín và sự thấu hiểu địa phương, giúp thông điệp y tế trở nên gần gũi và thuyết phục hơn. Cách làm hiệu quả nhất là ‘đến đúng nơi, đúng lúc, gặp đúng người, nói đúng điều người dân cần’. Việc lồng ghép vào các hoạt động sẵn có, sử dụng tiếng dân tộc và liên hệ với tình hình dịch bệnh thực tế đã chứng tỏ sức mạnh vượt trội.

Những kinh nghiệm quý báu từ Sơn La chính là tài liệu tham khảo sống động cho các địa phương, đặc biệt là các đơn vị y tế và đoàn thể sau sáp nhập, để cùng nhau chung tay tạo nên sự thay đổi bền vững trong công tác tiêm chủng. Tìm hiểu thêm về PATH và CDC Sơn La để biết thêm thông tin về dự án và các hoạt động liên quan.

]]>
Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ Nam bộ https://doanhnhansaoviet.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/ Sun, 10 Aug 2025 12:49:30 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/

Chị Út Tịch – Biểu Tượng Bất Tử Của Người Phụ Nữ Vùng Dân Tộc Thiểu Số Nam Bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả. Với tấm gương sáng đầy cảm hứng, chị Út Tịch đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người dân Việt Nam và trở thành một hình tượng cách mạng tiêu biểu.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ và phải tự mình đi bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Sau khi lấy chồng, chị có 6 người con và là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Bi kịch đã ập đến khi ông Tịch bị địch sát hại, và chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích để tiếp tục chiến đấu cho Tổ quốc.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc. Sự hy sinh của chị Út Tịch vào năm 1968, khi con gái út của chị mới lên 3, đã khiến hàng nghìn phụ nữ miền Tây khóc thương.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân. Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình.

Họ là những người phụ nữ dân tộc thiểu số, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng, như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh. Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân.

Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên. Để hỗ trợ phụ nữ vùng căn cứ, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn.

Bên cạnh đó, cần bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’. Chỉ khi thực hiện được những điều này, mới có thể phát huy được sức mạnh và tiềm năng của phụ nữ vùng căn cứ, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và phát triển.

]]>
ANTV phanh phui hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo https://doanhnhansaoviet.com/antv-phanh-phui-hoat-dong-cua-cac-the-luc-thu-dich-loi-dung-van-de-dan-toc-ton-giao/ Fri, 08 Aug 2025 14:34:33 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/antv-phanh-phui-hoat-dong-cua-cac-the-luc-thu-dich-loi-dung-van-de-dan-toc-ton-giao/

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông đã ngày càng lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để đẩy mạnh các hoạt động kích động và tuyên truyền về ý tưởng tự trị ly khai nhắm vào các dân tộc thiểu số. Đặc biệt, tại các khu vực cao nguyên, vùng sâu vùng xa cũng như các khu vực xa xôi thuộc các tỉnh biên giới phía Bắc, hoạt động tuyên truyền này đang trở nên phổ biến và gây ra nhiều quan ngại.

Đài ANTV, một kênh truyền thông được tài trợ toàn phần hoặc một phần bởi Chính phủ Việt Nam, đã lên tiếng về vấn đề này thông qua chương trình ‘Quan điểm sự thật’. Chương trình có tiêu đề ‘Sự hoang tưởng của người lưu vong về một quốc gia trên cao nguyên đá’, nhằm cung cấp thông tin và góc nhìn chính xác về những vấn đề liên quan.

Theo thông tin được Đài ANTV đưa ra, tình hình hoạt động của các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông tại các khu vực cao nguyên và vùng sâu vùng xa đang diễn ra phức tạp. Họ sử dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để tuyên truyền và kích động, tạo ra sự hoang tưởng và ngộ nhận trong một bộ phận người dân về vấn đề tự trị ly khai.

Trước tình hình này, việc nâng cao nhận thức và sự cảnh giác của người dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, là hết sức cần thiết. Cơ quan chức năng và các cấp chính quyền địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cung cấp thông tin chính xác để giúp người dân phân biệt đúng sai và không bị lừa đảo bởi những thông tin sai lệch.

Như Đài ANTV đã đề cập trong chương trình ‘Quan điểm sự thật’, việc cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn và sự hiểu biết sâu sắc về vấn đề này là vô cùng quan trọng. Việc chống lại các hoạt động tuyên truyền sai lệch và kích động cần được thực hiện một cách quyết liệt và đồng bộ, nhằm bảo vệ sự ổn định và an ninh của khu vực cũng như toàn quốc.

Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, xin mời truy cập vào trang web của Đài ANTV để có thể tiếp cận những thông tin chính xác và cập nhật nhất.

]]>
Nâng cao thu nhập cho phụ nữ dân tộc thiểu số từ cây măng https://doanhnhansaoviet.com/nang-cao-thu-nhap-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-tu-cay-mang/ Mon, 04 Aug 2025 07:21:02 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nang-cao-thu-nhap-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-tu-cay-mang/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Trước đây, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã như Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất.

Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>