Hạ tầng công nghệ – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Wed, 24 Sep 2025 19:05:55 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.4 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg Hạ tầng công nghệ – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Các trung tâm dữ liệu AI làm tăng giá điện ở Mỹ https://doanhnhansaoviet.com/cac-trung-tam-du-lieu-ai-lam-tang-gia-dien-o-my/ Wed, 24 Sep 2025 19:05:53 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/cac-trung-tam-du-lieu-ai-lam-tang-gia-dien-o-my/

Sự phát triển nhanh chóng của các trung tâm dữ liệu phục vụ trí tuệ nhân tạo (AI) và điện toán đám mây tại Mỹ đã dẫn đến một hệ quả không mong muốn: hóa đơn tiền điện cao hơn cho nhiều hộ gia đình. Mặc dù không trực tiếp sử dụng AI, người dân ở các khu vực có hạ tầng trung tâm dữ liệu đang phải đối mặt với chi phí sinh hoạt tăng đáng kể. Tại một số thành phố như Trenton, hóa đơn tiền điện trung bình của hộ gia đình đã tăng 26 USD mỗi tháng, trong khi ở Philadelphia, con số này là 17 USD, ở Pittsburgh là 10 USD và ở Columbus là 27 USD.

Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu điện năng từ các trung tâm dữ liệu gia tăng đã gây áp lực lên hệ thống lưới điện địa phương, buộc các nhà cung cấp phải điều chỉnh giá. Ông Abe Silverman, chuyên gia thị trường năng lượng, nhận định rằng toàn bộ nước Mỹ đang chứng kiến sức ép lớn cả về mặt chi phí truyền tải và sản xuất điện. Các trung tâm dữ liệu này được xây dựng bởi các tập đoàn công nghệ hàng đầu như Google, Amazon, Microsoft và Meta. Người dân không khỏi bất bình khi phải chi trả thêm chi phí năng lượng trong khi các ông lớn công nghệ tiếp tục thu lợi nhuận khổng lồ.

Một số bang như Ohio đã bắt đầu đưa ra giải pháp bằng cách yêu cầu các công ty công nghệ đóng góp vào việc hiện đại hóa lưới điện, điều kiện cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của hạ tầng kỹ thuật số. Về phần mình, một số doanh nghiệp như Google cam kết xây dựng trung tâm dữ liệu vận hành bằng 100% năng lượng không carbon vào năm 2030. Nếu thực hiện đúng lộ trình, điều này có thể góp phần giảm gánh nặng chi phí năng lượng và hạn chế phát thải khí nhà kính.

Tuy nhiên, giới chuyên gia nhận định vẫn còn quá sớm để xác định mức độ ảnh hưởng dài hạn đến hóa đơn điện của người dân, vì biến số thị trường điện còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như thời tiết, nguồn cung và chính sách điều tiết. Sự phát triển bền vững của các trung tâm dữ liệu và việc quản lý nhu cầu điện năng sẽ là chìa khóa để giảm thiểu tác động tiêu cực đến người dân và môi trường.

]]>
Việt Nam có thể trở thành trung tâm vận tải hàng không trong 5 năm tới https://doanhnhansaoviet.com/viet-nam-co-the-tro-thanh-trung-tam-van-tai-hang-khong-trong-5-nam-toi/ Wed, 24 Sep 2025 04:34:44 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/viet-nam-co-the-tro-thanh-trung-tam-van-tai-hang-khong-trong-5-nam-toi/

Việt Nam đang có cơ hội trở thành trung tâm vận tải hàng hóa hàng không trong vòng 5 năm tới, nhờ sự phát triển nhanh chóng của hạ tầng và nhu cầu vận tải hàng hóa. Theo ông Ben Anh, Tổng giám đốc điều hành Tập đoàn ITL, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu này trong vòng 5 năm, thậm chí là 3 năm. ITL là nhà cung cấp các giải pháp logistics tích hợp, đại diện của hơn 22 hãng hàng không, khai thác hàng hóa cho hơn 300 chuyến bay mỗi tuần.

Hai động lực chính推動 khả năng thành ‘hub’ nhanh và rõ nét hơn là cơ sở hạ tầng và nhu cầu vận tải đồng loạt tăng tốc. Dự án sân bay Long Thành cơ bản hoàn thành năm nay để vận hành chính thức vào 2026. Tại phía Bắc, Bộ Xây dựng vừa ban hành quyết định phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, với năng lực vận tải hàng hóa 1,6 triệu tấn mỗi năm vào 2030 và nâng lên 2,5 triệu tấn năm 2050.

Nhu cầu vận chuyển hàng hóa tại Việt Nam cao do vai trò cứ điểm sản xuất lớn. Lượng hàng hóa hàng không của Việt Nam đã đạt 1,2 triệu tấn mỗi năm, vượt Malaysia (900.000 tấn) và Philippines (600.000 tấn), dự báo sẽ vượt Thái Lan trong 2 năm tới nhờ tốc độ tăng trưởng hai con số.

Tuy nhiên, để trở thành một trung tâm vận tải hàng hóa hàng không, hạ tầng và nhu cầu là chưa đủ. Các sân bay còn phải có khả năng kết nối, bao gồm mạng lưới các hãng hàng không rộng khắp, là căn cứ hoạt động của nhiều hãng. Trung tâm logistics hàng không cần chính sách bầu trời mở và chính sách trung chuyển thân thiện, thủ tục hải quan nhanh gọn, môi trường thương mại tự do, từ đó hỗ trợ luồng hàng hóa quốc tế ra vào thông suốt.

Ngoài ra, yếu tố công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng, giúp kết nối đồng bộ giữa các thành phần trong chuỗi logistics như hãng bay, đơn vị khai thác kho bãi, hải quan, nhà vận chuyển. Việc xử lý hàng hóa mặt đất phải đạt hiệu quả cao và chuẩn mực về thời gian, đặc biệt quan trọng với các loại hàng hóa giá trị cao, cần tốc độ như thương mại điện tử, linh kiện điện tử, y tế.

Việt Nam có lợi thế đi sau, vừa học hỏi từ các mô hình thành công, vừa dễ dàng triển khai các giải pháp xanh hóa và số hóa nhanh chóng. Tuy nhiên, vẫn còn một số thách thức cần cải thiện, bao gồm chính sách hải quan, trung chuyển cởi mở, thân thiện hơn cho hàng hóa ra vào.

Ông Ben Anh cho biết, với sự phát triển nhanh chóng của hạ tầng và nhu cầu vận tải hàng hóa, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm vận tải hàng hóa hàng không trong thời gian tới. ITL sẽ tiếp tục đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ Việt Nam đạt được mục tiêu này.

Các chuyên gia cũng cho rằng, để trở thành trung tâm vận tải hàng hóa hàng không, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh và tăng cường kết nối với các hãng hàng không và logistics trên toàn thế giới. Tập đoàn ITL sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Việt Nam đạt được mục tiêu này.

]]>
Người dân hài lòng với Trung tâm Phục vụ Hành chính Cấp xã, nhưng còn vướng mắc về hạ tầng https://doanhnhansaoviet.com/nguoi-dan-hai-long-voi-trung-tam-phuc-vu-hanh-chinh-cap-xa-nhung-con-vuong-mac-ve-ha-tang/ Wed, 27 Aug 2025 04:05:45 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nguoi-dan-hai-long-voi-trung-tam-phuc-vu-hanh-chinh-cap-xa-nhung-con-vuong-mac-ve-ha-tang/

Sau hơn 3 tuần đưa vào hoạt động, các trung tâm phục vụ hành chính công (HCC) cấp xã tại Quảng Ngãi đã để lại ấn tượng tốt và mang lại sự hài lòng cho người dân. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn và bất cập cần được giải quyết để đảm bảo hoạt động hiệu quả của các trung tâm này.

Việc vận hành các trung tâm phục vụ HCC cấp xã đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Từ ngày 1 đến 21/7, tổng số hồ sơ tiếp nhận mới của 96 UBND xã, phường, đặc khu trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh là 22.575 nghìn hồ sơ. Trong đó, đã giải quyết 14.143 nghìn hồ sơ, đang giải quyết 8.337 hồ sơ. Đáng chú ý, tỷ lệ giải quyết hồ sơ trước hạn và đúng hạn đạt hơn 97%.

Mặc dù đạt được những kết quả tích cực, hoạt động tại các trung tâm phục vụ HCC cấp xã vẫn còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Một số xã còn gặp khó khăn về cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế, đường truyền mạng chưa ổn định, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ. Nhân lực công nghệ thông tin còn thiếu; chưa bố trí cán bộ phụ trách theo dõi, vận hành hệ thống và đảm bảo hoạt động thiết bị.

Ngoài ra, trình độ chuyên môn, kỹ năng xử lý công việc trên phần mềm của một số công chức chuyên môn được cử đến làm việc tại trung tâm chưa đồng đều. Một số cán bộ, công chức trước đây chỉ theo dõi chuyên môn một lĩnh vực, nay được giao hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, dẫn đến lúng túng trong quá trình hướng dẫn, hỗ trợ người dân thực hiện thủ tục hành chính.

Người dân mong rằng những kết quả tích cực sẽ được phát huy; còn khó khăn, vướng mắc sớm được khắc phục, tháo gỡ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người dân trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính.

Để hoạt động của các trung tâm phục vụ HCC cấp xã được hiệu quả, chính quyền địa phương cần quan tâm đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin, đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng cho công chức, cán bộ để đáp ứng yêu cầu của người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị để đảm bảo quá trình thực hiện thủ tục hành chính được thực hiện một cách nhanh chóng, thuận tiện.

Trung tâm phục vụ HCC cấp xã là một phần quan trọng trong quá trình cải cách hành chính, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Với sự vào cuộc tích cực của chính quyền địa phương và sự hỗ trợ của các cơ quan, đơn vị, hy vọng rằng các trung tâm phục vụ HCC cấp xã tại Quảng Ngãi sẽ sớm khắc phục được các khó khăn, vướng mắc và hoạt động hiệu quả, đem lại sự hài lòng cho người dân.

Trong thời gian tới, chính quyền địa phương cần tiếp tục đánh giá, rút kinh nghiệm và có các giải pháp phù hợp để phát huy những kết quả tích cực và khắc phục những tồn tại, hạn chế. Đồng thời, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về hoạt động của các trung tâm phục vụ HCC cấp xã để người dân biết và tiếp cận các dịch vụ công một cách thuận tiện.

]]>
Việt Nam cần tăng tốc trong cuộc đua công nghệ vũ trụ như thế nào? https://doanhnhansaoviet.com/viet-nam-can-tang-toc-trong-cuoc-dua-cong-nghe-vu-tru-nhu-the-nao/ Mon, 18 Aug 2025 20:19:58 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/viet-nam-can-tang-toc-trong-cuoc-dua-cong-nghe-vu-tru-nhu-the-nao/

Công nghệ vũ trụ đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Không còn là một lĩnh vực xa xôi và chỉ dành cho nghiên cứu, công nghệ vũ trụ đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành và lĩnh vực tại Việt Nam. Từ viễn thông, định vị dẫn đường đến viễn thám phục vụ quản lý tài nguyên, giám sát rừng, đo đạc bản đồ và trồng trọt, công nghệ vũ trụ đã trở thành một công cụ quan trọng giúp chúng ta quản lý và phát triển đất nước.

PGS.TS Phạm Anh Tuấn - Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cho rằng, muốn phá vỡ rào cản và thúc đẩy sự phát triển, Việt Nam cần một chiến lược phát triển vũ trụ dài hạn. Ảnh + Đồ họa: Hạo Thiên
PGS.TS Phạm Anh Tuấn – Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cho rằng, muốn phá vỡ rào cản và thúc đẩy sự phát triển, Việt Nam cần một chiến lược phát triển vũ trụ dài hạn. Ảnh + Đồ họa: Hạo Thiên

Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khẳng định rằng công nghệ vũ trụ đã hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực tại Việt Nam. ‘Công nghệ vũ trụ như không khí, chúng ta sử dụng hằng ngày nhưng không nhận ra’, ông Ngọc nói. Không chỉ các bộ, ngành, nhiều địa phương như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng cũng đã ứng dụng công nghệ này vào thực tiễn. Khối tư nhân cũng bắt đầu tham gia mạnh mẽ, tạo nên làn sóng chuyển động tích cực từ nhà nước sang thị trường.

Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại cần phải vượt qua. Hạ tầng công nghệ còn yếu, đầu tư chưa bài bản, thiếu sự phối hợp giữa các bộ ngành và chưa có chiến lược phát triển dài hơi. Ngoài ra, việc vận hành hệ thống dữ liệu vệ tinh đòi hỏi kiến thức đa ngành nhưng nguồn nhân lực chất lượng cao lại đang thiếu nghiêm trọng. Cục Viễn thám Quốc gia kiến nghị Chính phủ cần có chính sách thu hút, giữ chân nhân tài, đầu tư hạ tầng công nghệ một cách căn cơ để ngành vũ trụ Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội.

PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, cho rằng muốn phá vỡ rào cản và thúc đẩy sự phát triển, Việt Nam cần một chiến lược phát triển vũ trụ dài hạn, không chỉ dừng ở mốc 10 năm mà phải nhìn tới 2040-2050. Vũ trụ không chỉ là lĩnh vực khoa học – công nghệ chiến lược mà đang trở thành một ngành kinh tế đầy tiềm năng. Kinh tế vũ trụ toàn cầu được dự báo sẽ đạt quy mô 1.400 tỉ USD vào năm 2030, với sự đầu tư mạnh mẽ từ các tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới.

Việt Nam cần xác lập vị trí trong bức tranh này, không chỉ bằng ứng dụng vệ tinh, viễn thông mà còn thông qua các dịch vụ, sản phẩm công nghiệp phụ trợ và giáo dục khoa học. Để đột phá, cần đưa công nghệ địa không gian vào chương trình chuyển đổi số quốc gia như một ‘lớp nền’ của hệ thống số. Đồng thời, cần có cơ chế miễn trừ trách nhiệm khi sai lệch thông tin do công nghệ cũ để khuyến khích áp dụng dữ liệu mới.

Bên cạnh đó, các chương trình phổ cập kiến thức vũ trụ cho học sinh, sinh viên và cán bộ công quyền cũng cần được triển khai rộng khắp. Việc ứng dụng công nghệ vũ trụ vào thực tiễn không chỉ giúp chúng ta quản lý và phát triển đất nước mà còn mở ra những cơ hội mới cho kinh tế và giáo dục.

]]>
Việt Nam cần đột phá hạ tầng công nghệ để ứng dụng AI hiệu quả https://doanhnhansaoviet.com/viet-nam-can-dot-pha-ha-tang-cong-nghe-de-ung-dung-ai-hieu-qua/ Sat, 02 Aug 2025 20:35:57 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/viet-nam-can-dot-pha-ha-tang-cong-nghe-de-ung-dung-ai-hieu-qua/

Công nghệ 5G có tiềm năng đóng góp tới 130 tỷ USD cho nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2030, theo một nghiên cứu gần đây của Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu (LKYSPP). Tuy nhiên, mức độ ứng dụng 5G trong khu vực ASEAN hiện còn chênh lệch lớn. Trong khi Singapore đã đạt mức ứng dụng 5G lên tới 48,3%, một số quốc gia thành viên ASEAN khác chỉ mới đạt dưới 1%.

Giáo sư Vũ Minh Khương, Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore
Giáo sư Vũ Minh Khương, Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore

Các nhà nghiên cứu cho rằng nếu không có hành động phối hợp kịp thời, những chênh lệch này có thể làm sâu sắc thêm khoảng cách số và làm suy yếu năng lực cạnh tranh khu vực, khiến ASEAN bị tụt lại phía sau trong cuộc đua chuyển đổi số toàn cầu. Giáo sư Vũ Minh Khương, Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, nhận định rằng sự hội tụ giữa 5G và trí tuệ nhân tạo (AI) chính là hạ tầng cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy các lĩnh vực như sản xuất thông minh, nông nghiệp chính xác, và giao thông tự hành.

Dựa trên các cuộc phỏng vấn chuyên sâu và khảo sát với hơn 400 chuyên gia đến từ 8 quốc gia ASEAN, nghiên cứu của LKYSPP chỉ ra rằng các chính phủ cần nhìn nhận 5G như một hạ tầng chiến lược cho AI, chứ không đơn thuần là nâng cấp viễn thông. Đồng thời, cần khẩn trương thu hẹp khoảng cách kỹ năng đang cản trở doanh nghiệp áp dụng công nghệ.

Để đảm bảo tương lai số của ASEAN, báo cáo đề xuất 5 ưu tiên chiến lược: Xây dựng các chiến lược phát triển 5G-AI quốc gia với lộ trình rõ ràng đến năm 2030; thành lập cơ quan điều phối có quyền hạn thực sự tại các quốc gia thành viên ASEAN; triển khai các chính sách bao trùm, tiên tiến nhằm tăng cường khả năng tiếp cận và đổi mới; phát triển hệ sinh thái AI thông qua hợp tác công – tư; triển khai các cơ chế giám sát mạnh mẽ để theo dõi tiến độ và cho phép điều chỉnh lộ trình.

Tại Việt Nam, các nhà mạng viễn thông hiện chưa đầu tư đúng mức cho 5G. Giáo sư Vũ Minh Khương cho rằng Chính phủ cần chủ động điều phối giống như cách Singapore đang làm bằng cách kết nối các bên: nhà cung cấp công nghệ quốc tế, doanh nghiệp trong nước, người dùng và các quỹ tài trợ. Sự kết hợp giữa 5G và AI sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho trải nghiệm kết nối thông minh, góp phần định hình lại các ngành công nghiệp trong tương lai.

Chính vì vậy, khi nói đến năng lực cạnh tranh của AI, không thể bỏ qua vai trò chiến lược của mạng 5G. Để theo dõi thêm thông tin về công nghệ 5G và tác động của nó đối với nền kinh tế, có thể tham khảo thêm tại Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu và các nguồn thông tin liên quan khác.

]]>
Hàn Quốc giúp Việt Nam triển khai hệ thống truyền thông không gian cho Internet 6G https://doanhnhansaoviet.com/han-quoc-giup-viet-nam-trien-khai-he-thong-truyen-thong-khong-gian-cho-internet-6g/ Fri, 01 Aug 2025 02:35:34 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/han-quoc-giup-viet-nam-trien-khai-he-thong-truyen-thong-khong-gian-cho-internet-6g/

Công ty khởi nghiệp đến từ Hàn Quốc, Spacebit, vừa thiết lập quan hệ hợp tác với Công ty Cổ phần Giải pháp Công nghệ Thông tin Quốc tế ITS và Viện Nghiên cứu Điện tử và Viễn thông Hàn Quốc (ETRI) nhằm triển khai hệ thống truyền thông không gian tại Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc hiện thực hóa công nghệ truyền thông không gian tại khu vực Đông Nam Á, đặc biệt với mô hình hạ tầng lai kết hợp giữa vệ tinh và mặt đất. Mục tiêu chính của dự án là cung cấp khả năng kết nối internet nhanh, rộng và bền vững hơn cho người dùng.

Công nghệ truyền dẫn được áp dụng trong dự án này là kết quả nghiên cứu của ETRI, cho phép truyền dữ liệu ổn định ở tốc độ cao qua môi trường quang, ngay cả khi điều kiện địa lý hoặc thời tiết bất lợi. Được biết, Viện ETRI đã phát triển công nghệ AOWC (Adaptive Optical Wireless Communication) từ năm 2016 và đã chuyển giao công nghệ này cho Spacebit để thương mại hóa. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc áp dụng công nghệ truyền thông không gian vào thực tiễn.

Theo kế hoạch, dự án sẽ được triển khai tại 24 địa điểm chiến lược trên cả nước. Mục tiêu của dự án là thiết lập một mạng truyền thông tốc độ siêu cao, có thể hoạt động độc lập hoặc song song với mạng cáp quang hiện có. Công nghệ này không chỉ phục vụ cho các ngành công nghệ cao mà còn giúp người dân ở những nơi khó tiếp cận hạ tầng được kết nối internet tốt hơn. Việc triển khai dự án này kỳ vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho việc phát triển hạ tầng viễn thông ở những khu vực khó khăn.

Bên cạnh công nghệ AOWC, dự án này còn sử dụng DTN (Delay/Disruption Tolerant Networking) – một lớp nền tảng giúp duy trì kết nối trong mọi tình huống. DTN hoạt động theo cơ chế ‘lưu – chuyển tiếp’, dữ liệu được lưu tại các điểm trung gian và sẽ tiếp tục truyền đi khi kết nối được thiết lập lại. Sự kết hợp giữa công nghệ AOWC và DTN sẽ giúp cho hệ thống truyền thông không gian trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn.

Ông Park Jung-tae, CEO của Spacebit, cho biết Việt Nam là thị trường lý tưởng để khởi đầu cho dự án này, không chỉ vì tiềm năng tăng trưởng mà còn vì sự ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ cho chuyển đổi số. Spacebit tin rằng từ đây, họ có thể tiếp cận nhanh hơn với các thị trường tương tự trong khu vực. Sự hợp tác này không chỉ mang lại lợi ích cho Việt Nam mà còn mở ra cơ hội cho sự phát triển của công nghệ truyền thông không gian trong tương lai.

Đại diện ITS Việt Nam chia sẻ rằng công nghệ truyền thông không gian không chỉ phục vụ cho các ngành công nghệ cao mà còn giúp người dân ở những nơi khó tiếp cận hạ tầng được kết nối tốt hơn. Sự hợp tác giữa Spacebit, ITS và ETRI là ví dụ tiêu biểu cho mô hình hợp tác công – tư – nghiên cứu trong kỷ nguyên deeptech. Việc chọn Việt Nam làm bàn đạp cho chiến lược này không phải là ngẫu nhiên, vì Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược, hạ tầng pháp lý đang được hoàn thiện nhanh chóng và nhu cầu số hóa rất lớn ở cả đô thị lẫn nông thôn.

]]>