Hiện đại hóa – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Mon, 25 Aug 2025 21:50:40 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg Hiện đại hóa – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Hà Nội ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch đô thị như thế nào? https://doanhnhansaoviet.com/ha-noi-ung-dung-cong-nghe-so-trong-quy-hoach-do-thi-nhu-the-nao/ Mon, 25 Aug 2025 21:50:38 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/ha-noi-ung-dung-cong-nghe-so-trong-quy-hoach-do-thi-nhu-the-nao/

Trong nỗ lực không ngừng để trở thành một đô thị thông minh, hiện đại và bền vững, Hà Nội đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch đô thị. Thành phố đã và đang tận dụng các công nghệ tiên tiến như GIS (Hệ thống Thông tin Địa lý), BIM (Mô hình thông tin công trình), AI (Trí tuệ nhân tạo), và IoT (Internet vạn vật) trong hoạt động quy hoạch. Mục tiêu là tạo ra một hệ sinh thái quy hoạch hiện đại, nơi mọi công trình, tuyến đường, mạng lưới hạ tầng được mô hình hóa 3D, được đánh giá vòng đời, kết nối dữ liệu thời gian thực và hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng, chính xác.

Đến năm 2026, Hà Nội đặt mục tiêu số hóa 100% hồ sơ quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phân khu trên nền GIS. Tới năm 2030, toàn bộ dữ liệu quy hoạch kỹ thuật và kiến trúc của thành phố sẽ được GIS hóa và cung cấp công khai trên nền tảng tra cứu trực tuyến. Việc ứng dụng công nghệ GIS không chỉ là bước tiến về mặt kỹ thuật, mà còn khẳng định cam kết về minh bạch và cải cách hành chính của chính quyền đô thị hiện đại.

Các chuyên gia cho rằng ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch không chỉ nhằm mục đích xây dựng nhiều hơn, nhanh hơn, mà còn để phát triển hài hòa hơn, bền vững hơn. Đó là tư duy quy hoạch mới mà Hà Nội cần theo đuổi. PGS.TS Trần Hải Dương, chuyên gia công nghệ đô thị, nhấn mạnh rằng Hà Nội đang cần xây dựng một hệ sinh thái dữ liệu thông minh, tích hợp GIS, AI, IoT với Big Data để phục vụ quy hoạch, giám sát và dự báo phát triển đô thị.

Theo lộ trình được Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội công bố, thành phố đặt ra các cột mốc cụ thể: giai đoạn 2025-2026 sẽ hoàn tất số hóa toàn bộ hồ sơ quy hoạch phân khu, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật cấp thành phố; giai đoạn 2027-2030 sẽ mở rộng mô hình hóa dữ liệu BIM cho các công trình công cộng, tuyến đường, hạ tầng kỹ thuật chủ chốt; giai đoạn 2030-2035 sẽ triển khai nền tảng tra cứu dữ liệu mở toàn thành phố, kết nối quy hoạch với dữ liệu dân cư, giao thông, môi trường trên nền GIS – BIM – AI.

Tầm nhìn xuyên suốt của lộ trình này là xây dựng một hệ thống ‘bản sao số’ toàn diện cho đô thị Hà Nội, nơi mỗi quyết định quy hoạch đều có căn cứ từ dữ liệu, mô phỏng, phân tích và đánh giá chính sách theo thời gian thực. Để thành công, thành phố cần không chỉ dừng lại ở đầu tư công nghệ, mà còn phải cải cách đồng bộ về thể chế, đào tạo nhân lực, xây dựng văn hóa minh bạch hóa dữ liệu và kết nối cộng đồng.

]]>
Vướng thể chế khi sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương https://doanhnhansaoviet.com/vuong-the-che-khi-sap-xep-to-chuc-bo-may-chinh-quyen-dia-phuong/ Thu, 07 Aug 2025 13:11:25 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/vuong-the-che-khi-sap-xep-to-chuc-bo-may-chinh-quyen-dia-phuong/

Nhiều địa phương sau khi sáp nhập đang đối mặt với khó khăn trong việc áp dụng văn bản cũ và chậm ban hành văn bản mới, gây ra gián đoạn trong hoạt động quản lý và ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Tình trạng này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nhìn nhận đầy đủ những hệ lụy pháp lý và tìm giải pháp để bảo đảm tính thống nhất và ổn định của hệ thống pháp luật tại chính quyền địa phương.

Trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, chủ trương sắp xếp và tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước là một trong những nội dung trọng tâm được Đảng và Nhà nước xác định xuyên suốt qua nhiều nhiệm kỳ. Từ Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) đến Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW và gần đây nhất là Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, tinh thần cải cách và sắp xếp đơn vị hành chính được khẳng định là cần thiết để xây dựng nền hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, hướng đến mô hình chính quyền địa phương hiện đại, có khả năng quản trị tốt và phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy tình trạng ‘khoảng trống pháp lý’, ‘lúng túng thể chế’ đã và đang xuất hiện tại không ít địa phương. Tốc độ sắp xếp tổ chức bộ máy đang đi nhanh hơn so với tiến độ chuẩn bị thể chế đi kèm, đặc biệt là việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) phục vụ cho hoạt động của chính quyền địa phương sau sáp nhập.

Quá trình sáp nhập đơn vị hành chính, nếu không đi kèm với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về thể chế, sẽ tất yếu dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu hụt văn bản điều chỉnh, từ đó tạo ra những hệ lụy pháp lý nghiêm trọng. Trong thực tiễn triển khai tại nhiều địa phương, tình trạng ban hành VBQPPL không kịp tiến độ tổ chức lại bộ máy đang trở thành điểm nghẽn, cản trở việc ổn định hoạt động của chính quyền mới.

Để khắc phục tình trạng này, cần tuân thủ các nguyên tắc bảo đảm thống nhất, ổn định hệ thống pháp luật khi tổ chức lại đơn vị hành chính. Trước hết, cần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành. Việc sửa đổi, thay thế hoặc ban hành mới VBQPPL tại địa phương sau khi sáp nhập phải được rà soát kỹ lưỡng về mặt căn cứ pháp lý, bảo đảm không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với luật và các văn bản của Trung ương.

Thứ hai, cần bảo đảm tính kế thừa hợp lý. Việc sáp nhập đơn vị hành chính không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn giá trị của hệ thống văn bản tại các đơn vị cũ. Ngược lại, nhiều văn bản đã được xây dựng công phu, đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và đang phát huy hiệu quả, cần được kế thừa, hiệu chỉnh, chứ không nên xóa bỏ hoàn toàn.

Thứ ba, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm trong quá trình xây dựng pháp luật. Trong mọi hoạt động quản trị nhà nước, việc lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm không chỉ là một khẩu hiệu hành chính, mà phải được thể hiện rõ trong nội dung và quy trình xây dựng văn bản pháp luật.

Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sau sáp nhập, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể. Trước hết, cần tổ chức một cuộc tổng rà soát hệ thống VBQPPL đang áp dụng tại các đơn vị hành chính liên quan. Trên cơ sở rà soát, chính quyền cấp huyện cần lập danh mục phân loại các văn bản theo ba nhóm: (i) văn bản tiếp tục áp dụng không cần sửa đổi; (ii) văn bản cần sửa đổi, bổ sung; (iii) văn bản cần bãi bỏ.

Thứ hai, cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng thể chế sau sáp nhập. Chất lượng thể chế không thể đo bằng số lượng văn bản ban hành mà cần có các tiêu chí rõ ràng về hiệu lực, hiệu quả, tính hợp pháp, tính khả thi và tính minh bạch.

Thứ ba, cần củng cố đội ngũ làm công tác pháp chế ở địa phương. Một trong những điểm yếu cố hữu của chính quyền địa phương là năng lực pháp chế chưa được quan tâm đúng mức. Sau sáp nhập, điều này càng trở nên nghiêm trọng khi địa bàn quản lý rộng hơn, số lượng đầu mối công việc tăng lên, nhưng đội ngũ làm công tác pháp chế vẫn còn mỏng, thiếu chuyên môn hoặc kiêm nhiệm.

Cuối cùng, cần áp dụng công nghệ thông tin trong hệ thống hóa và quản lý văn bản pháp luật địa phương. Việc quản lý văn bản thủ công đang là một rào cản lớn khiến các địa phương chậm trễ trong rà soát và điều chỉnh hệ thống VBQPPL.

]]>
Hải quan khu vực VIII: Cải cách hành chính để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp https://doanhnhansaoviet.com/hai-quan-khu-vuc-viii-cai-cach-hanh-chinh-de-tao-thuan-loi-cho-doanh-nghiep/ Sun, 27 Jul 2025 15:18:51 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/hai-quan-khu-vuc-viii-cai-cach-hanh-chinh-de-tao-thuan-loi-cho-doanh-nghiep/

Chi cục Hải quan khu vực VIII đã xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong thời gian qua. Với phương châm hành động nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đơn vị đã nỗ lực phát huy thế mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa hải quan. Điều này nhằm tăng tính công khai, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp.

Hải quan cửa khẩu cảng Hòn Gai gặp gỡ, tìm hiểu các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp có hàng hoá xuất nhập khẩu với Hoa Kỳ. Ảnh: Hoàng Nga
Hải quan cửa khẩu cảng Hòn Gai gặp gỡ, tìm hiểu các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp có hàng hoá xuất nhập khẩu với Hoa Kỳ. Ảnh: Hoàng Nga

Trong 6 tháng đầu năm 2025, Chi cục đã triển khai quyết liệt trên tất cả 6 nội dung về cải cách hành chính, đặc biệt tập trung vào cải cách thủ tục hành chính (TTHC) và hiện đại hóa hải quan. Mục tiêu của đơn vị là tăng công khai, minh bạch và đạt được mục tiêu ‘4 giảm – 4 tăng’. Cụ thể, Chi cục đã rà soát và báo cáo đề xuất cắt giảm 8 nhóm mặt hàng nhập khẩu thuộc diện phải kiểm tra chuyên ngành. Đồng thời, đơn vị kiến nghị triển khai trên Hệ thống một cửa quốc gia đối với 4 nhóm mặt hàng/chứng từ đang phải thực hiện thủ công.

Đơn vị đã lựa chọn và rà soát 9 quyết định công bố TTHC của Bộ Tài chính để kiến nghị việc công bố, công khai TTHC. Hải quan cửa khẩu quốc tế Móng Cái đã chủ động rà soát và đề xuất cắt giảm thủ tục, các mặt hàng kiểm tra chuyên ngành. Kết quả đo giải phóng hàng năm 2024 đối với hàng nhập khẩu là 3 giờ 0 phút 34 giây, giảm 39% so với năm trước. Đối với hàng xuất khẩu, thời gian giải phóng hàng chỉ còn 9 phút 2 giây.

Cùng với đó, đơn vị bám sát chủ trương và mục tiêu về chuyển đổi số theo lộ trình của ngành và của tỉnh. Điều này gắn với hỗ trợ các doanh nghiệp trong chuyển đổi số. Bước đầu, đã có 15 doanh nghiệp đồng ý tham gia chương trình chuyển đổi số sau các chương trình làm việc của Chi cục. Duy trì thông quan điện tử (qua hệ thống VNACCS/VCIS) 100% tờ khai thông quan trên hệ thống; 100% tờ khai được thực hiện nộp thuế trên hệ thống dịch vụ nộp thuế điện tử 24/7.

Trong 6 tháng đầu năm, Chi cục đã tiếp nhận và xử lý 2.411 hồ sơ trên dịch vụ công trực tuyến HQ36a; 1.928 lượt phương tiện xuất nhập cảnh được làm thủ tục hải quan trên hệ thống E-Manifest; 3.772 tờ khai nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành được trả trên hệ thống một cửa quốc gia. Tổng kim ngạch XNK hàng hóa qua địa bàn đạt 19,35 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch hàng hóa mở tờ khai tại Chi cục đạt 10,2 tỷ USD, tăng 7% so cùng kỳ.

Đồng thời, đơn vị đã trang bị và hiện đại hóa công tác kiểm tra, giám sát hải quan bằng hệ thống camera giám sát thường xuyên 24/7 tại các cửa khẩu, cảng biển, kho, bãi, địa điểm tập kết, kiểm tra hàng hóa. Hệ thống này được kết nối về hải quan cửa khẩu, Chi cục Hải quan khu vực VIII và Cục Hải quan. Hệ thống máy soi container, máy soi hành lý được trang bị tại các cửa khẩu hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan.

Kết quả đạt được cho thấy quyết tâm của Chi cục Hải quan khu vực VIII trong nỗ lực cải cách hành chính nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, minh bạch, giảm chi phí và tạo điều kiện tối đa cho người dân, doanh nghiệp.

]]>
Chuyển đổi số trong bảo tàng: Nhu cầu cấp thiết để bảo tồn di sản và kết nối cộng đồng https://doanhnhansaoviet.com/chuyen-doi-so-trong-bao-tang-nhu-cau-cap-thiet-de-bao-ton-di-san-va-ket-noi-cong-dong/ Sun, 27 Jul 2025 14:04:29 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/chuyen-doi-so-trong-bao-tang-nhu-cau-cap-thiet-de-bao-ton-di-san-va-ket-noi-cong-dong/

Trong thời đại số, việc chuyển đổi số trong hoạt động bảo tàng đã trở thành xu hướng tất yếu để hiện đại hóa công tác bảo tồn, tăng cường khả năng tiếp cận di sản và hội nhập với xu thế phát triển chung của bảo tàng thế giới. TS Nguyễn Anh Minh, Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, đã chia sẻ quan điểm rằng đã đến lúc các bảo tàng tại Việt Nam cần thiết có một phòng chuyển đổi số để góp phần quan trọng trong công tác bảo tồn di sản một cách bền vững và thu hút công chúng thế hệ mới.

Theo kinh nghiệm của Ba Lan, một quốc gia có hệ thống bảo tàng hiện đại và năng động bậc nhất Đông Âu, việc thành lập phòng chuyển đổi số đã trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động của các bảo tàng. Phòng chuyển đổi số tại các bảo tàng Ba Lan đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ chuyên biệt, bao gồm: số hóa hiện vật, xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu, đăng tải nội dung lên các nền tảng số, phục vụ cho công tác in ấn, xuất bản, cũng như truyền thông và nghiên cứu.

Ông Nguyễn Anh Minh và đoàn công tác cùng đoàn cán bộ Bảo tàng Công viên Hoàng gia Łazienki tại Warsaw
Ông Nguyễn Anh Minh và đoàn công tác cùng đoàn cán bộ Bảo tàng Công viên Hoàng gia Łazienki tại Warsaw

Một điểm đáng chú ý là tất cả các bảo tàng tại Ba Lan đều được trang bị studio chụp ảnh chuyên nghiệp có diện tích lớn, hệ thống ánh sáng chuẩn bảo tàng và máy ảnh hiện đại với độ phân giải cao. Đây chính là nơi thực hiện việc số hóa chi tiết từng hiện vật, từng tác phẩm nghệ thuật với tiêu chuẩn kỹ thuật cao, đảm bảo tính chân thực và sắc nét khi chuyển sang không gian số.

Trao đổi với cán bộ phục chế, tu sửa tại Bảo tàng Vải tại Thành phố Łódź
Trao đổi với cán bộ phục chế, tu sửa tại Bảo tàng Vải tại Thành phố Łódź

Sau khi hoàn tất khâu chụp ảnh và xử lý hình ảnh, dữ liệu được cập nhật lên hệ thống nền tảng số và tích hợp vào cơ sở dữ liệu số hóa, đây là quá trình lưu giữ toàn bộ hiện vật, hình ảnh, tư liệu của bảo tàng. Quá trình này là nền tảng quan trọng để chia sẻ hình ảnh các hiện vật đến với các chuyên gia, nhà nghiên cứu, sinh viên và công chúng trong nước và quốc tế.

Vậy nhưng, tại Việt Nam hiện nay, hầu hết các bảo tàng vẫn vận hành theo mô hình truyền thống và chưa có phòng chuyên trách cho chuyển đổi số. Các chuyên gia cho rằng, nếu không có bước nhảy về công nghệ, bảo tàng sẽ tiếp tục lùi lại phía sau, không bắt kịp nhu cầu và tâm lý tiếp cận mới của công chúng. Một rào cản lớn là hầu hết các bảo tàng tại Việt Nam chưa có phòng chuyên trách cho chuyển đổi số. Việc số hóa hiện vật, nếu có, thường được thực hiện rời rạc, dưới dạng các dự án ngắn hạn, thuê ngoài. Điều này khiến dữ liệu thiếu đồng bộ, không bảo mật, khó duy trì và không phát huy được giá trị về lâu dài.

Do đó, việc thành lập một quỹ chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tàng tại Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm tạo ra nguồn lực ổn định để hỗ trợ các bảo tàng từng bước hình thành phòng chuyển đổi số, triển khai số hóa hiện vật, xây dựng cơ sở dữ liệu và phát triển nền tảng trưng bày số một cách bài bản, bền vững.

]]>