Miền núi – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Sat, 30 Aug 2025 09:21:22 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg Miền núi – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Nghệ An: Mưa lớn tiếp diễn, nguy cơ cao lũ quét và sạt lở đất ở miền núi phía Tây https://doanhnhansaoviet.com/nghe-an-mua-lon-tiep-dien-nguy-co-cao-lu-quet-va-sat-lo-dat-o-mien-nui-phia-tay/ Sat, 30 Aug 2025 09:21:17 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nghe-an-mua-lon-tiep-dien-nguy-co-cao-lu-quet-va-sat-lo-dat-o-mien-nui-phia-tay/

Ngày 25/7, tỉnh Nghệ An dự báo có mưa vừa, có nơi mưa to và dông, trong đó khu vực miền núi phía Tây tỉnh tiếp tục đối mặt với nguy cơ cao xảy ra mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất. Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn và Phòng thủ dân sự tỉnh Nghệ An đã phát thông báo cảnh báo về tình hình mưa lũ trên địa bàn.

Người dân tâm lũ xã Tương Dương nhặt nhạnh tài sản bị vùi lấp trong bùn đất (Ảnh: Cổng thông tin xã Tương Dương).
Người dân tâm lũ xã Tương Dương nhặt nhạnh tài sản bị vùi lấp trong bùn đất (Ảnh: Cổng thông tin xã Tương Dương).

Thông báo cho biết, từ đêm 24/7 đến đêm 25/7, tỉnh Nghệ An có mưa vừa, có nơi mưa to và dông. Tổng lượng mưa phổ biến từ 40-80mm, vùng núi có nơi trên 150mm. Nhiều xã miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề do mưa lớn từ hoàn lưu bão số 3 gây lũ, ngập lụt, sạt lở đất. Hiện tại, các khu vực này tiếp tục đối mặt với nguy cơ cao xảy ra mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất.

Trước tình hình trên, Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn và Phòng thủ dân sự tỉnh Nghệ An đề nghị UBND phường, xã và các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức theo dõi chặt chẽ, dự báo, cảnh báo, thông tin kịp thời diễn biến mưa lũ để chủ động triển khai các biện pháp ứng phó. Các địa phương, đơn vị chỉ đạo kiểm tra, rà soát, sẵn sàng phương án đảm bảo an toàn các hồ chứa và hạ du, đặc biệt là các hồ chứa thủy điện nhỏ, hồ thủy lợi xung yếu, hồ đầy nước.

Cùng với đó, lãnh đạo các xã kiên quyết di dời, sơ tán người, phương tiện và tài sản ra khỏi các khu vực nguy hiểm, nhất là khu vực có nguy cơ sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, ngập lụt để bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản của người dân và tài sản của nhà nước. Bên cạnh đó, các địa phương cũng được yêu cầu kiểm soát, hướng dẫn, phân luồng giao thông, nhất là qua các ngầm, tràn, khu vực ngập sâu, và tuyên truyền, hướng dẫn người dân kỹ năng bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro trong mưa lũ.

Đáng chú ý, Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn và Phòng thủ dân sự tỉnh Nghệ An yêu cầu các địa phương tuyệt đối không để người dân có tư tưởng chủ quan trước, trong và sau mưa lũ đồng thời đặc biệt quan tâm, giám sát đối với người già, trẻ em, người khuyết tật sinh sống trong khu vực bị ảnh hưởng.

Như tin đã đưa, tại xã Mường Xén và xã Tương Dương, 2 địa bàn bị ảnh hưởng nghiêm trọng do trận lũ tối 22/7, từ đêm 24 đến sáng 25/7, trên địa bàn xảy ra mưa lớn kéo dài, nước sông và khe suối dâng lên. Đến 8h ngày 25/7, mưa đã tạnh, tuy nhiên quốc lộ 7 vẫn chưa thông đến các địa bàn này. Hiện tại, nước lũ đã rút, để lại một lượng đất đá khổng lồ và nhiều tài sản của người dân bị hư hỏng, vùi lấp trong bùn đất. Công tác dọn dẹp, khắc phục hậu quả mưa lũ đang gặp rất nhiều khó khăn do thiếu nhân lực, mất điện và nước.

]]>
Lâm Đồng: Bảo tồn văn hóa M’Nông gắn với du lịch bền vững https://doanhnhansaoviet.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/ Sat, 30 Aug 2025 07:40:38 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/

Ở xã biên giới Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng, một mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với du lịch đã được triển khai. Mục tiêu của mô hình là đánh thức niềm tự hào và biến di sản thành tài sản, hướng tới phát triển bền vững. Người M’Nông sở hữu một kho tàng văn hóa phong phú, với những phong tục tập quán được gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST
Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST

TS. Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam, cho biết rằng sự thay đổi phương thức sản xuất, chuyển đổi cây trồng và quá trình hội nhập văn hóa đương đại đã tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa của người M’Nông. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, cần kiểm kê và số hóa để lưu giữ; và thực hiện truyền dạy, kết nối thế hệ, qua đó giúp mạch nguồn truyền thống được duy trì, phát triển một cách bền vững hơn.

Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST
Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST

Mô hình bảo tồn và phát huy văn hóa M’Nông đã được ra mắt vào ngày 28/6 vừa qua. Dự án nằm trong khuôn khổ dự án 06 ‘Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch’ thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024 trên địa bàn huyện biên giới Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông (cũ), nay là xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng.

Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST
Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST

Dự án đã tổ chức truyền dạy cồng chiêng, múa, ẩm thực truyền thống, dệt thổ cẩm, đan lát và quy trình làm rượu cần tại cộng đồng bon Bu N’Drung. Các buổi tập huấn chuyên sâu với sự tham gia của các chuyên gia về di sản văn hóa các dân tộc, kỹ năng thực hiện bảo tồn và phát triển văn hóa trên địa bàn, ‘đánh thức’ khả năng trình diễn nghệ thuật dân gian, phát triển du lịch bằng cách ‘biến di sản thành tài sản’, tạo sinh kế cho cộng đồng một cách bền vững.

Mô hình đã được bàn giao cho chính quyền xã Tuy Đức mới để tiếp tục vận hành và phát huy, có chương trình kết nối các doanh nghiệp, cơ sở giáo dục địa phương; tạo liên kết gắn với các điểm du lịch – tài nguyên tự nhiên và nhân văn trên địa bàn. Đồng thời, kết nối với các tour-tuyến giới thiệu Nhà văn hóa cộng đồng, không gian trưng bày ‘Hội tụ sắc màu văn hóa truyền thống M’Nông’ và không gian nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng, dân ca, dân vũ; cùng trải nghiệm ẩm thực ‘hương vị rừng, hương vị suối’… để trở thành điểm đến hấp dẫn.

Với mong muốn biến di sản thành tài sản, mô hình này không chỉ gắn kết du lịch với phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho địa phương, mà còn nâng cao ý thức của người dân về vốn giá trị truyền thống, bảo tồn các giá trị văn hóa M’Nông, và tăng cường sự kết nối cộng đồng.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Thu, 28 Aug 2025 15:10:58 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Vốn đầu tư công cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi ‘dồn’ vào 1.719 chương trình mục tiêu quốc gia đang bị ‘ách’ https://doanhnhansaoviet.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-don-vao-1-719-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-dang-bi-ach/ Mon, 21 Jul 2025 01:48:14 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-don-vao-1-719-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-dang-bi-ach/

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 từ năm 2021-2025 (Chương trình 1719) đã được triển khai với mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa vùng đồng bào DTTS&MN và cả nước.

Theo Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng và Ban chỉ đạo đã tích cực chỉ đạo các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Nhờ đó, kết quả giải ngân đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm ngoái, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách Trung ương đạt 83% kế hoạch, cao hơn nhiều so với năm 2022 chỉ đạt 25,6%.

Trong giai đoạn 2022-2025, tổng vốn ngân sách Trung ương giao thực hiện Chương trình 1719 là khoảng 89,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm 49,1 nghìn tỷ vốn đầu tư phát triển và gần 40,6 nghìn tỷ vốn sự nghiệp. Tính đến nay, kết quả giải ngân vốn ngân sách Trung ương đã phân bổ thực hiện chương trình giai đoạn 2022-2024 đạt xấp xỉ 48 nghìn tỷ, tương đương 72,6% kế hoạch.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn một số vướng mắc và khó khăn trong triển khai chương trình. Cụ thể, đối tượng thụ hưởng một số chính sách hỗ trợ đầu tư từ Chương trình 1719 có xu hướng thu hẹp so với nhu cầu vốn của giai đoạn 2021-2025. Quy định áp dụng các tiêu chí số hộ nghèo, hộ cận nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn… được xác định từ năm 2020, 2021 để áp dụng phân bổ vốn cho cả giai đoạn 2022-2025 đã không còn phù hợp với nhu cầu vốn thực tế.

Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc liên quan tới quy định đối tượng thuộc các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới không tiếp tục được hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia. Mức hỗ trợ thực hiện một số nội dung còn thấp, chưa thu hút, khuyến khích các đối tượng tham gia. Công tác chuẩn bị đầu tư của một số địa phương còn bất cập, chưa sát thực tế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn.

Nhìn chung, Chương trình 1719 đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc giải ngân vốn đầu tư công, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua để đảm bảo mục tiêu của chương trình.

Để tháo gỡ những vướng mắc và khó khăn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan. Đồng thời, cần rà soát, đánh giá và điều chỉnh các quy định, chính sách để phù hợp với nhu cầu thực tế và đảm bảo mục tiêu của chương trình.

Một số giải pháp có thể được xem xét, như: điều chỉnh tiêu chí phân bổ vốn, nâng mức hỗ trợ cho các nội dung, tăng cường công tác chuẩn bị đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương. Hơn nữa, cần tăng cường giám sát, đánh giá và kiểm tra thường xuyên để đảm bảo tiến độ và hiệu quả của chương trình.

Mục tiêu của Chương trình 1719 là rất quan trọng và cần được thực hiện hiệu quả để cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với sự nỗ lực và phối hợp của các bên liên quan, hy vọng rằng chương trình sẽ đạt được mục tiêu đề ra.

]]>