Miền núi – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Thu, 09 Oct 2025 08:19:57 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg Miền núi – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Hội phụ nữ tỉnh giúp người dân tiếp cận vốn vay ưu đãi https://doanhnhansaoviet.com/hoi-phu-nu-tinh-giup-nguoi-dan-tiep-can-von-vay-uu-dai/ Thu, 09 Oct 2025 08:19:54 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/hoi-phu-nu-tinh-giup-nguoi-dan-tiep-can-von-vay-uu-dai/

Trong những năm gần đây, Hội Phụ nữ các cấp tại tỉnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp hàng nghìn hội viên phụ nữ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi chính sách. Quá trình vay và cho vay vốn được thực hiện một cách công khai, minh bạch, giúp phụ nữ vùng nông thôn, miền núi tự tin khởi sự kinh doanh và xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả.

Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.
Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.

Các cấp hội phụ nữ tỉnh đã tích cực hỗ trợ hội viên trong việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn. Quá trình vay và cho vay vốn luôn được thực hiện một cách minh bạch, công khai, đúng đối tượng và đúng quy trình. Hội viên được hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn một cách bài bản, tư vấn cách sử dụng vốn hiệu quả và cam kết trả nợ đúng hạn.

Điển hình trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ưu đãi là bà Đỗ Thị Lợi, thôn Chợ, xã Thống Nhất. Từ 3 cặp bò mẹ con ban đầu, sau 5 năm, nhờ sự kiên trì học hỏi kỹ thuật và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ, đàn bò của gia đình đã phát triển lên 50 con, cho thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Cuộc sống gia đình dần ổn định, khang trang, con cái học hành đầy đủ.

Bên cạnh đó, nhiều hội viên đã chuyển hướng sang kinh tế vườn tổng hợp. Bà Trần Thị Vân, xã Thống Nhất, với 3ha đất vườn đồi đã đầu tư trồng cây thanh long ruột đỏ, na, vải, ổi… cho thu nhập 150-200 triệu đồng mỗi năm. Nhờ nguồn vốn ưu đãi được tiếp cận minh bạch và sự hướng dẫn kỹ thuật từ hội phụ nữ, mô hình của bà không chỉ thành công, mà còn trở thành địa chỉ học tập cho nhiều chị em khác.

Để tạo điều kiện vay vốn làm ăn cho hội viên, Hội thường xuyên phổ biến các chính sách cho vay, công khai, minh bạch trong việc lựa chọn đối tượng được vay và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ vay vốn. Sự phát triển của các mô hình kinh tế do phụ nữ làm chủ không chỉ thể hiện sự minh bạch trong cho vay vốn đúng người, đúng việc, mà còn cho thấy sự ứng dụng công nghệ trong quản lý và sản xuất.

Mô hình trang trại trứng gà Tân An của chị Phạm Thị Nguyệt Dung, phường Quảng Yên là một ví dụ. Nhờ số hóa quy trình từ chăn nuôi đến bán hàng, mỗi ngày trang trại cung cấp khoảng 5 vạn trứng ra thị trường, doanh thu đạt 60 tỷ đồng/năm, tạo việc làm cho hàng chục lao động. Tìm hiểu thêm về Trang trại trứng gà Tân An.

Toàn tỉnh hiện có hàng trăm mô hình tổ tiết kiệm và vay vốn do phụ nữ quản lý. Nhờ hoạt động công khai, dân chủ, minh bạch, các mô hình này không chỉ giúp hội viên phát triển kinh tế, mà còn củng cố niềm tin vào tổ chức Hội. Những người phụ nữ từng e ngại tiếp cận tài chính, nay đã trở thành trụ cột kinh tế, chủ động trong sản xuất, kinh doanh và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến cộng đồng.

Trong thời gian tới, các cấp hội phụ nữ tỉnh tiếp tục phát huy vai trò cầu nối chính sách, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý vốn, đồng thời khuyến khích các mô hình phụ nữ làm chủ kinh tế tiếp cận công nghệ, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Phát huy vai trò của tổ tiết kiệm và vay vốn.

]]>
Thanh Hoá lên kế hoạch đưa cán bộ về giúp dân vùng cao thoát nghèo https://doanhnhansaoviet.com/thanh-hoa-len-ke-hoach-dua-can-bo-ve-giup-dan-vung-cao-thoat-ngheo/ Fri, 03 Oct 2025 02:35:38 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/thanh-hoa-len-ke-hoach-dua-can-bo-ve-giup-dan-vung-cao-thoat-ngheo/

Trong nỗ lực giảm thiểu tình trạng dôi dư cán bộ tại các địa phương và khai thác tiềm năng của các vùng đất khó khăn, tỉnh Thanh Hoá đã triển khai chính sách điều động cán bộ từ miền xuôi lên miền núi. Đây là một phần trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giúp người dân tại các vùng đất khó khăn thoát nghèo và cải thiện điều kiện sống.


Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ
Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ

Huyện Mường Lát, một trong những địa phương nghèo nhất cả nước, hiện đang là điểm đến cho nhiều cán bộ trẻ. Với 8 đơn vị xã và khoảng 41.000 nhân khẩu thuộc các dân tộc Thái, Mông, Dao, Khơ Mú, Mường, Kinh, huyện Mường Lát vẫn còn nhiều thách thức trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Theo số liệu mới nhất, hơn 65% hộ dân tại Mường Lát đang sống dưới mức cận nghèo hoặc nghèo.


Thiếu sinh kế người dân loay hoay tìm cách thoát nghèo
Thiếu sinh kế người dân loay hoay tìm cách thoát nghèo

Các hộ dân tại Mường Lát chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp nhỏ lẻ và chăn nuôi, nhưng thường xuyên gặp phải khó khăn do thời tiết và dịch bệnh. Một vấn đề đáng lo ngại khác là nhiều hộ dân không dám vay vốn để phát triển kinh tế vì sợ không có thu nhập để chi trả. Điều này đã tạo ra một vòng luẩn quẩn khó khăn cho người dân tại đây.


Đời sống người dân còn nhiều khó khăn
Đời sống người dân còn nhiều khó khăn

Trước những thách thức này, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã được giao nhiệm vụ khảo sát và đánh giá thổ nhưỡng, khí hậu của Mường Lát để tìm ra loại cây, con phù hợp với điều kiện địa phương. Tuy nhiên, dự án trồng xoan, lát đã được triển khai từ năm 2011 nhưng không thành công do không phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng.

Hiện tại, một số người dân đã bắt đầu thử nghiệm trồng cây quế để lấy tinh dầu, và chính quyền địa phương đang chỉ đạo kiểm lâm kiểm tra chất lượng tinh dầu. Ngoài ra, mô hình trồng cỏ chăn nuôi gia súc cũng đã được triển khai và mang lại giá trị kinh tế cho các hộ gia đình.

Tín hiệu vui từ chính sách luân chuyển, điều động cán bộ gần dân, sát dân
Tín hiệu vui từ chính sách luân chuyển, điều động cán bộ gần dân, sát dân

Để hỗ trợ cán bộ vùng xuôi lên núi công tác, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều chính sách và cơ chế hỗ trợ kịp thời. Theo đó, mức hỗ trợ là 1,75 lần mức lương cơ sở mỗi người mỗi tháng đối với các trường hợp làm việc tại 38 xã thuộc các huyện vùng cao.

Ngày 31/7 vừa qua, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã ký quyết định điều động 176 công chức từ các xã, phường có số lượng dôi dư đến nhận nhiệm vụ tại các xã vùng cao, miền núi đang thiếu nhân lực theo quy định. Thời gian điều động bắt đầu từ ngày 1/8/2025 và kéo dài trong 3 năm.

Sau thời hạn trên, công chức sẽ được xem xét bố trí trở lại nơi công tác cũ, trừ khi có nguyện vọng tiếp tục làm việc tại địa bàn mới, hoặc được phân công nhiệm vụ khác phù hợp. Trong thời gian công tác, họ sẽ được hưởng đầy đủ chế độ, chính sách hỗ trợ theo quy định.

Chính sách điều động cán bộ từ miền xuôi lên miền núi của tỉnh Thanh Hoá đang mở ra hy vọng mới cho người dân tại các vùng đất khó khăn. Với sự hỗ trợ kịp thời và đầy đủ, hy vọng rằng người dân tại Mường Lát và các vùng đất khó khăn khác sẽ sớm thoát nghèo và cải thiện điều kiện sống.

Thông tin thêm về chính sách hỗ trợ của tỉnh Thanh Hóa có thể được tìm hiểu tại trang web chính thức của UBND tỉnh Thanh Hóa.

]]>
Người đàn ông vận chuyển lợn bệnh dịch tả lợn châu Phi bị phát hiện https://doanhnhansaoviet.com/nguoi-dan-ong-van-chuyen-lon-benh-dich-ta-lon-chau-phi-bi-phat-hien/ Tue, 23 Sep 2025 21:36:04 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nguoi-dan-ong-van-chuyen-lon-benh-dich-ta-lon-chau-phi-bi-phat-hien/

Ngày 2/8, ông Nguyễn Tấn Nghiệp, Phó Chủ tịch UBND xã Phước Trà, thành phố Đà Nẵng, xác nhận rằng lực lượng chức năng của xã đã lập biên bản xử lý ông H.T.T, trú tại xã Bình Dương, thành phố Đà Nẵng, vì hành vi vận chuyển lợn qua vùng có dịch tả lợn châu Phi.

Trước đó, vào khoảng 16h ngày 1/8, đội kiểm tra liên ngành của xã Phước Trà đang thực hiện nhiệm vụ trên đường Đông Trường Sơn, thôn Trà Nô, xã Phước Trà, thì phát hiện ông Trợ đi xe máy chở theo 2 con lợn, có tổng trọng lượng khoảng 70 kg, bị dịch tả lợn châu Phi. Để che giấu, ông T. đã dùng lá cây ngụy trang, che xung quanh chiếc lồng chứa lợn bị bệnh.

Khi làm việc với cơ quan chức năng, ông T. khai mua 2 con lợn này tại thôn 2, xã Bình Lãnh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông chở lợn đi qua các vùng có dịch từ xã Việt An, xã Hiệp Đức, xã Phước Trà, để bán cho người dân xã Trà Đốc, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, ông T. không xuất trình được giấy chứng nhận kiểm dịch và giấy tờ liên quan đến nguồn gốc xuất xứ của số lợn này.

Hai con lợn còn sống nhưng đã bị mắc bệnh dịch tả lợn châu Phi. Cơ quan chức năng xã Phước Trà đã lập biên bản đối với ông T. vì có hành vi vận chuyển lợn qua địa bàn đang có dịch tả lợn châu Phi. Lực lượng chức năng đã yêu cầu ông T. phối hợp với UBND xã tiêu hủy số lợn nhiễm bệnh theo quy định, đồng thời tiêu độc, khử trùng phương tiện cũng như khu vực xung quanh để tránh nguy cơ lây lan.

Ông T. đã ký xác nhận và cam kết không tái phạm. Ông Nghiệp cho biết, trên địa bàn xã đã xuất hiện ổ dịch tả lợn châu Phi và đã công bố dịch. Chính quyền địa phương đang tích cực triển khai các giải pháp nhằm sớm dập dịch bệnh.

Cơ quan chức năng cũng khuyến cáo người dân không tự ý vận chuyển, buôn bán, giết mổ hay vứt xác động vật mắc bệnh ra môi trường, vì hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây hậu quả nghiêm trọng đến tình hình dịch bệnh, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và sức khỏe cộng đồng.

]]>
Nghệ An: Mưa lớn tiếp diễn, nguy cơ cao lũ quét và sạt lở đất ở miền núi phía Tây https://doanhnhansaoviet.com/nghe-an-mua-lon-tiep-dien-nguy-co-cao-lu-quet-va-sat-lo-dat-o-mien-nui-phia-tay/ Sat, 30 Aug 2025 09:21:17 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nghe-an-mua-lon-tiep-dien-nguy-co-cao-lu-quet-va-sat-lo-dat-o-mien-nui-phia-tay/

Ngày 25/7, tỉnh Nghệ An dự báo có mưa vừa, có nơi mưa to và dông, trong đó khu vực miền núi phía Tây tỉnh tiếp tục đối mặt với nguy cơ cao xảy ra mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất. Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn và Phòng thủ dân sự tỉnh Nghệ An đã phát thông báo cảnh báo về tình hình mưa lũ trên địa bàn.

Người dân tâm lũ xã Tương Dương nhặt nhạnh tài sản bị vùi lấp trong bùn đất (Ảnh: Cổng thông tin xã Tương Dương).
Người dân tâm lũ xã Tương Dương nhặt nhạnh tài sản bị vùi lấp trong bùn đất (Ảnh: Cổng thông tin xã Tương Dương).

Thông báo cho biết, từ đêm 24/7 đến đêm 25/7, tỉnh Nghệ An có mưa vừa, có nơi mưa to và dông. Tổng lượng mưa phổ biến từ 40-80mm, vùng núi có nơi trên 150mm. Nhiều xã miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề do mưa lớn từ hoàn lưu bão số 3 gây lũ, ngập lụt, sạt lở đất. Hiện tại, các khu vực này tiếp tục đối mặt với nguy cơ cao xảy ra mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất.

Trước tình hình trên, Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn và Phòng thủ dân sự tỉnh Nghệ An đề nghị UBND phường, xã và các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức theo dõi chặt chẽ, dự báo, cảnh báo, thông tin kịp thời diễn biến mưa lũ để chủ động triển khai các biện pháp ứng phó. Các địa phương, đơn vị chỉ đạo kiểm tra, rà soát, sẵn sàng phương án đảm bảo an toàn các hồ chứa và hạ du, đặc biệt là các hồ chứa thủy điện nhỏ, hồ thủy lợi xung yếu, hồ đầy nước.

Cùng với đó, lãnh đạo các xã kiên quyết di dời, sơ tán người, phương tiện và tài sản ra khỏi các khu vực nguy hiểm, nhất là khu vực có nguy cơ sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, ngập lụt để bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản của người dân và tài sản của nhà nước. Bên cạnh đó, các địa phương cũng được yêu cầu kiểm soát, hướng dẫn, phân luồng giao thông, nhất là qua các ngầm, tràn, khu vực ngập sâu, và tuyên truyền, hướng dẫn người dân kỹ năng bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro trong mưa lũ.

Đáng chú ý, Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai – Tìm kiếm cứu nạn và Phòng thủ dân sự tỉnh Nghệ An yêu cầu các địa phương tuyệt đối không để người dân có tư tưởng chủ quan trước, trong và sau mưa lũ đồng thời đặc biệt quan tâm, giám sát đối với người già, trẻ em, người khuyết tật sinh sống trong khu vực bị ảnh hưởng.

Như tin đã đưa, tại xã Mường Xén và xã Tương Dương, 2 địa bàn bị ảnh hưởng nghiêm trọng do trận lũ tối 22/7, từ đêm 24 đến sáng 25/7, trên địa bàn xảy ra mưa lớn kéo dài, nước sông và khe suối dâng lên. Đến 8h ngày 25/7, mưa đã tạnh, tuy nhiên quốc lộ 7 vẫn chưa thông đến các địa bàn này. Hiện tại, nước lũ đã rút, để lại một lượng đất đá khổng lồ và nhiều tài sản của người dân bị hư hỏng, vùi lấp trong bùn đất. Công tác dọn dẹp, khắc phục hậu quả mưa lũ đang gặp rất nhiều khó khăn do thiếu nhân lực, mất điện và nước.

]]>
Lâm Đồng: Bảo tồn văn hóa M’Nông gắn với du lịch bền vững https://doanhnhansaoviet.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/ Sat, 30 Aug 2025 07:40:38 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/

Ở xã biên giới Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng, một mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với du lịch đã được triển khai. Mục tiêu của mô hình là đánh thức niềm tự hào và biến di sản thành tài sản, hướng tới phát triển bền vững. Người M’Nông sở hữu một kho tàng văn hóa phong phú, với những phong tục tập quán được gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST
Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST

TS. Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam, cho biết rằng sự thay đổi phương thức sản xuất, chuyển đổi cây trồng và quá trình hội nhập văn hóa đương đại đã tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa của người M’Nông. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, cần kiểm kê và số hóa để lưu giữ; và thực hiện truyền dạy, kết nối thế hệ, qua đó giúp mạch nguồn truyền thống được duy trì, phát triển một cách bền vững hơn.

Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST
Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST

Mô hình bảo tồn và phát huy văn hóa M’Nông đã được ra mắt vào ngày 28/6 vừa qua. Dự án nằm trong khuôn khổ dự án 06 ‘Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch’ thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024 trên địa bàn huyện biên giới Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông (cũ), nay là xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng.

Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST
Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST

Dự án đã tổ chức truyền dạy cồng chiêng, múa, ẩm thực truyền thống, dệt thổ cẩm, đan lát và quy trình làm rượu cần tại cộng đồng bon Bu N’Drung. Các buổi tập huấn chuyên sâu với sự tham gia của các chuyên gia về di sản văn hóa các dân tộc, kỹ năng thực hiện bảo tồn và phát triển văn hóa trên địa bàn, ‘đánh thức’ khả năng trình diễn nghệ thuật dân gian, phát triển du lịch bằng cách ‘biến di sản thành tài sản’, tạo sinh kế cho cộng đồng một cách bền vững.

Mô hình đã được bàn giao cho chính quyền xã Tuy Đức mới để tiếp tục vận hành và phát huy, có chương trình kết nối các doanh nghiệp, cơ sở giáo dục địa phương; tạo liên kết gắn với các điểm du lịch – tài nguyên tự nhiên và nhân văn trên địa bàn. Đồng thời, kết nối với các tour-tuyến giới thiệu Nhà văn hóa cộng đồng, không gian trưng bày ‘Hội tụ sắc màu văn hóa truyền thống M’Nông’ và không gian nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng, dân ca, dân vũ; cùng trải nghiệm ẩm thực ‘hương vị rừng, hương vị suối’… để trở thành điểm đến hấp dẫn.

Với mong muốn biến di sản thành tài sản, mô hình này không chỉ gắn kết du lịch với phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho địa phương, mà còn nâng cao ý thức của người dân về vốn giá trị truyền thống, bảo tồn các giá trị văn hóa M’Nông, và tăng cường sự kết nối cộng đồng.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Thu, 28 Aug 2025 15:10:58 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Vốn đầu tư công cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi ‘dồn’ vào 1.719 chương trình mục tiêu quốc gia đang bị ‘ách’ https://doanhnhansaoviet.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-don-vao-1-719-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-dang-bi-ach/ Mon, 21 Jul 2025 01:48:14 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-don-vao-1-719-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-dang-bi-ach/

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 từ năm 2021-2025 (Chương trình 1719) đã được triển khai với mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa vùng đồng bào DTTS&MN và cả nước.

Theo Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng và Ban chỉ đạo đã tích cực chỉ đạo các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Nhờ đó, kết quả giải ngân đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm ngoái, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách Trung ương đạt 83% kế hoạch, cao hơn nhiều so với năm 2022 chỉ đạt 25,6%.

Trong giai đoạn 2022-2025, tổng vốn ngân sách Trung ương giao thực hiện Chương trình 1719 là khoảng 89,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm 49,1 nghìn tỷ vốn đầu tư phát triển và gần 40,6 nghìn tỷ vốn sự nghiệp. Tính đến nay, kết quả giải ngân vốn ngân sách Trung ương đã phân bổ thực hiện chương trình giai đoạn 2022-2024 đạt xấp xỉ 48 nghìn tỷ, tương đương 72,6% kế hoạch.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn một số vướng mắc và khó khăn trong triển khai chương trình. Cụ thể, đối tượng thụ hưởng một số chính sách hỗ trợ đầu tư từ Chương trình 1719 có xu hướng thu hẹp so với nhu cầu vốn của giai đoạn 2021-2025. Quy định áp dụng các tiêu chí số hộ nghèo, hộ cận nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn… được xác định từ năm 2020, 2021 để áp dụng phân bổ vốn cho cả giai đoạn 2022-2025 đã không còn phù hợp với nhu cầu vốn thực tế.

Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc liên quan tới quy định đối tượng thuộc các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới không tiếp tục được hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia. Mức hỗ trợ thực hiện một số nội dung còn thấp, chưa thu hút, khuyến khích các đối tượng tham gia. Công tác chuẩn bị đầu tư của một số địa phương còn bất cập, chưa sát thực tế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn.

Nhìn chung, Chương trình 1719 đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc giải ngân vốn đầu tư công, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua để đảm bảo mục tiêu của chương trình.

Để tháo gỡ những vướng mắc và khó khăn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan. Đồng thời, cần rà soát, đánh giá và điều chỉnh các quy định, chính sách để phù hợp với nhu cầu thực tế và đảm bảo mục tiêu của chương trình.

Một số giải pháp có thể được xem xét, như: điều chỉnh tiêu chí phân bổ vốn, nâng mức hỗ trợ cho các nội dung, tăng cường công tác chuẩn bị đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương. Hơn nữa, cần tăng cường giám sát, đánh giá và kiểm tra thường xuyên để đảm bảo tiến độ và hiệu quả của chương trình.

Mục tiêu của Chương trình 1719 là rất quan trọng và cần được thực hiện hiệu quả để cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với sự nỗ lực và phối hợp của các bên liên quan, hy vọng rằng chương trình sẽ đạt được mục tiêu đề ra.

]]>