phát triển kinh tế – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com Trang thông tin doanh nhân sao Việt Wed, 08 Oct 2025 01:34:54 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhansaoviet/2025/08/doanhnhansaoviet.svg phát triển kinh tế – Doanhnhansaoviet.com https://doanhnhansaoviet.com 32 32 Hà Nội đẩy nhanh tiến độ dự án giao thông trọng điểm giải gỡ vướng mắc https://doanhnhansaoviet.com/ha-noi-day-nhanh-tien-do-du-an-giao-thong-trong-diem-giai-go-vuong-mac/ Wed, 08 Oct 2025 01:34:51 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/ha-noi-day-nhanh-tien-do-du-an-giao-thong-trong-diem-giai-go-vuong-mac/

Trong nỗ lực đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông chiến lược, các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương đang tích cực triển khai các dự án, công trình giao thông trọng điểm. Điều này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn tạo ra không gian phát triển mới, giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân, từ đó tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, doanh nghiệp và nền kinh tế.

Công trường thi công đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (giai đoạn 1) đoạn qua địa bàn TP Cần Thơ.
Công trường thi công đường bộ cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng (giai đoạn 1) đoạn qua địa bàn TP Cần Thơ.

Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, nhiều vướng mắc, khó khăn đã được giải quyết kịp thời. Các chủ đầu tư đã chỉ đạo các nhà thầu tích cực tổ chức thi công “3 ca, 4 kíp”, thi công xuyên lễ, tranh thủ điều kiện thời tiết mùa khô để đẩy mạnh tiến độ. Đến nay, đã hoàn thành các thủ tục đầu tư để khởi công 5 dự án đường bộ cao tốc với tổng chiều dài 271km và đang tiếp tục triển khai các thủ tục để khởi công 3 dự án đường bộ cao tốc với tổng chiều dài 302km vào dịp 19-8-2025. Các dự án Tân Phú – Bảo Lộc và TP Hồ Chí Minh – Mộc Bài với tổng chiều dài 117km đang lựa chọn nhà đầu tư để khởi công vào quý IV-2025.

Về vật liệu xây dựng, các địa phương đã tích cực giải quyết các thủ tục cấp mỏ đáp ứng tiến độ thi công. Riêng các dự án ở khu vực ĐBSCL, sau thời gian dài gặp khó khăn về xác định nguồn cung, Chính phủ, các bộ, ngành đã trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo phân bổ và hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn trong triển khai thủ tục khai thác. Đến nay, các địa phương đã rà soát và bố trí đủ nguồn cung khoảng 76,2 triệu m3 cát (nhu cầu 65,5 triệu m3) cho 12 dự án trong khu vực và hoàn thành các thủ tục cấp mỏ, tháo gỡ nút thắt lớn của các dự án, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công.

Từ đó, đã hoàn thành đưa vào khai thác 4 dự án thành phần với tổng chiều dài 208km thuộc cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025; 19km dự án Bến Lức – Long Thành; 10km dự án thành phần (DATP) 3 Biên Hòa – Vũng Tàu. Qua đó, nâng tổng số đường bộ cao tốc cả nước lên 2.268km.

Các dự án đường bộ cao tốc có kế hoạch hoàn thành năm 2025 để đạt mục tiêu 3.000km đã bứt tốc gia tăng sản lượng trong 6 tháng đầu năm. Đơn cử, cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 tăng 20.193 tỉ đồng, DATP 2 Biên Hòa – Vũng Tàu tăng 1.266 tỉ đồng, Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh DATP 1 tăng 3.378 tỉ đồng…

Tại phiên họp thứ 19 của Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải mới đây, các bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư đã thảo luận, đề xuất, kiến nghị giải pháp để đẩy nhanh tiến độ các dự án giao thông trọng điểm.

Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng giai đoạn 1, dự án thành phần 2, 3, 4 đoạn qua địa bàn TP Cần Thơ đến ngày 31-7-2025 khối lượng thực hiện đạt 41,54% giá trị hợp đồng; giải ngân đạt tỷ lệ 69,39%. Từ đầu năm đến nay, tiến độ triển khai dự án có chuyển biến tốt, tuy nhiên vẫn còn chậm so kế hoạch đề ra.

Ông Trần Văn Lâu, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, kiến nghị Bộ Xây dựng hỗ trợ về chuyên môn việc nghiên cứu, xem xét, quyết định giải pháp để điều chỉnh thiết kế nhằm rút ngắn tiến độ thi công dự án theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Dự kiến dịp 19-8-2025 sẽ hoàn thành thêm 208km đường bộ cao tốc, nâng tổng số đường bộ cả nước lên 2.476km. Như vậy để hoàn thành mục tiêu 3.000km đường bộ cao tốc trong năm 2025, theo kế hoạch từ nay đến cuối năm, Bộ Xây dựng và các địa phương cần hoàn thành thêm khoảng 733km đường bộ cao tốc.

Ông Trần Hồng Minh đề nghị các cơ quan chủ quản bám sát tiến độ triển khai dự án, tiếp tục chỉ đạo các chủ đầu tư, nhà thầu thi công tổ chức thi công “3 ca 4 kíp”, nỗ lực cố gắng, chủ động tháo gỡ các khó khăn, áp dụng các giải pháp kỹ thuật rút ngắn thời gian thi công để bảo đảm hoàn thành các dự án trong năm 2025.

Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần yêu nước, thần tốc, táo bạo, bứt phá để nỗ lực hơn nữa, quyết tâm hơn nữa đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Cần đổi mới tư duy, phương pháp, cách tiếp cận; tư tưởng thông, quyết tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả, trọng tâm, trọng điểm.

]]>
Cô Tô bứt phá với du lịch biển đảo, xây dựng đặc khu giàu mạnh https://doanhnhansaoviet.com/co-to-but-pha-voi-du-lich-bien-dao-xay-dung-dac-khu-giau-manh/ Tue, 07 Oct 2025 17:19:44 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/co-to-but-pha-voi-du-lich-bien-dao-xay-dung-dac-khu-giau-manh/

Đặc khu Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, được thành lập từ 3 xã, thị trấn thuộc huyện Cô Tô trước đây, là địa phương giàu tiềm năng về du lịch biển đảo, có vị trí chiến lược quan trọng trên vùng biển Đông Bắc của Tổ quốc. Với những nỗ lực to lớn của cả hệ thống chính trị và nhân dân địa phương, được sự quan tâm của Trung ương, của tỉnh Quảng Ninh, Cô Tô đã không ngừng phát triển toàn diện. Những nỗ lực và kết quả đó là cơ sở để đặc khu Cô Tô thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch biển đảo, xây dựng đặc khu giàu mạnh, hạnh phúc, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh.

Một góc trung tâm Đặc khu Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh_Nguồn: thanhnien.vn
Một góc trung tâm Đặc khu Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh_Nguồn: thanhnien.vn

Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Đảng bộ và nhân dân Cô Tô đã nỗ lực, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển toàn diện về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đạt được những kết quả quan trọng. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên được tăng cường. Năng lực lãnh đạo, bản lĩnh chính trị và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên ngày càng được nâng cao.

Ngày làm việc thứ nhất Đại hội đại biểu Đảng bộ đặc khu Cô Tô lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030_Ảnh: quangninh.gov.vn
Ngày làm việc thứ nhất Đại hội đại biểu Đảng bộ đặc khu Cô Tô lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030_Ảnh: quangninh.gov.vn

Đặc khu Cô Tô đã triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp thực chất, hiệu quả, quán triệt quan điểm phát triển dựa vào nội lực là quyết định, ngoại lực là đột phá. Giai đoạn 2020 – 2025, kinh tế Cô Tô đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 16,03%/năm, cao hơn bình quân chung của tỉnh Quảng Ninh. Cơ cấu kinh tế của đặc khu đã đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra: Thương mại – dịch vụ chiếm 65%, công nghiệp – xây dựng chiếm 20%, nông nghiệp chiếm 15%. Đặc khu đã xây dựng, triển khai hiệu quả các nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch chuyên đề nhằm phát triển du lịch nhanh, bền vững.

Trên lĩnh vực nông nghiệp, đặc khu đã tập trung phát triển nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản theo quy mô hàng hóa. Kết quả, tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản đạt 6.100 tấn/năm. Đặc khu Cô Tô cũng đã chú trọng phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành đã được triển khai rộng rãi.

Về văn hóa, xã hội, đặc khu đã phát triển văn hóa, xã hội, con người; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Các tiềm năng văn hóa, lịch sử của Cô Tô đã được khơi dậy, từng bước gắn kết với phát triển du lịch và dịch vụ. Đặc khu Cô Tô đã thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi người có công, đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Chương trình giảm nghèo bền vững đã được thực hiện hiệu quả.

Trong giáo dục, đặc khu đã chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên. Kết quả, số cán bộ quản lý và giáo viên đạt chuẩn trở lên là 98,3%. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được đặc khu chú trọng. Công tác phòng, chống dịch bệnh đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả.

Đại hội đại biểu Đảng bộ đặc khu Cô Tô lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở ra giai đoạn mới theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp với vai trò, vị trí là đặc khu hành chính, kinh tế biển, đảo đầu tiên của tỉnh Quảng Ninh. Mục tiêu bao trùm của nhiệm kỳ tới là tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát huy truyền thống đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, phát huy nội lực, thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế biển xanh.

Để đạt được các mục tiêu trên, đặc khu Cô Tô sẽ tập trung thực hiện các giải pháp chủ yếu sau: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; phát triển kinh tế – xã hội, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người. Đặc khu Cô Tô sẽ đẩy mạnh cải cách hành chính; phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; thúc đẩy phong trào khởi nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân.

]]>
Xác định ngành kinh tế mũi nhọn, xã Triệu Sơn của tỉnh Thanh Hóa vươn lên https://doanhnhansaoviet.com/xac-dinh-nganh-kinh-te-mui-nhon-xa-trieu-son-cua-tinh-thanh-hoa-vuon-len/ Tue, 07 Oct 2025 06:49:28 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/xac-dinh-nganh-kinh-te-mui-nhon-xa-trieu-son-cua-tinh-thanh-hoa-vuon-len/

Sau quá trình sáp nhập, xã Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã đặt ra mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế, với trọng tâm là nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân trên địa bàn. Với định hướng rõ ràng, địa phương đã tích cực triển khai các giải pháp nhằm khai thác hiệu quả những tiềm năng và thế mạnh sẵn có, đồng thời ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn.

Qua nỗ lực không ngừng, xã Triệu Sơn đã đạt được những chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển kinh tế. Các hoạt động sản xuất kinh doanh đã được đẩy mạnh, góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể cho người dân và ngân sách địa phương. Sự phát triển này không chỉ giúp nâng cao mức sống của người dân mà còn đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện các dịch vụ công cộng và bảo vệ môi trường.

Nhờ vào việc tập trung phát triển kinh tế và khai thác thế mạnh sẵn có, xã Triệu Sơn đã từng bước tạo nên diện mạo mới, khởi sắc hơn trước. Cuộc sống của người dân dần được cải thiện, với nhiều cơ hội mới để tăng thu nhập và phát triển sự nghiệp. Đồng thời, những kết quả tích cực này cũng giúp địa phương đáp ứng được kỳ vọng của người dân và yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Để tiếp tục duy trì và phát huy những kết quả đã đạt được, xã Triệu Sơn cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, đa dạng hóa các nguồn thu và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Bên cạnh đó, việc tăng cường áp dụng công nghệ, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương trong tương lai.

Với tầm nhìn phát triển lâu dài và những định hướng cụ thể, xã Triệu Sơn đang không ngừng phấn đấu để trở thành một điểm sáng trong khu vực, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh Thanh Hóa. Qua đó, tiếp tục nâng cao đời sống người dân và xây dựng một cộng đồng vững mạnh, thịnh vượng.

]]>
Phụ nữ Đồng Tháp khởi nghiệp với nông nghiệp bền vững qua đề án 939 https://doanhnhansaoviet.com/phu-nu-dong-thap-khoi-nghiep-voi-nong-nghiep-ben-vung-qua-de-an-939/ Mon, 06 Oct 2025 17:04:37 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/phu-nu-dong-thap-khoi-nghiep-voi-nong-nghiep-ben-vung-qua-de-an-939/

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới nâng cao và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững, tỉnh Đồng Tháp đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể. Với tinh thần “Đồng hành cùng phụ nữ phát triển”, các cấp ủy Đảng, chính quyền và tổ chức Hội Phụ nữ trong tỉnh đã cụ thể hóa nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ làm kinh tế thành nội dung trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, gắn với thực hiện hiệu quả chủ trương lồng ghép giới trong phát triển kinh tế ở địa phương.

Đồng Tháp là tỉnh nông nghiệp với lực lượng lao động nữ chiếm trên 50%. Phụ nữ đóng vai trò nòng cốt trong các mô hình kinh tế hộ, kinh tế hợp tác và tiểu thương trong khu vực kinh tế tư nhân. Việc phụ nữ phát triển sản xuất – kinh doanh ổn định không chỉ góp phần giảm nghèo, nâng cao đời sống gia đình, mà còn là cơ sở tạo nguồn phát triển đảng viên nữ, tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở.

Tỉnh Đồng Tháp là địa phương đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Trong quá trình đó, phụ nữ không chỉ là người sản xuất, mà còn là người tổ chức liên kết, tiêu thụ, đổi mới mô hình kinh doanh. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn còn gặp nhiều rào cản như thiếu kỹ năng quản trị, thiếu tiếp cận thông tin thị trường, khó khăn trong chuyển đổi số và đổi mới công nghệ.

Nhận thức rõ điều này, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã chủ động phối hợp triển khai Đề án 939 hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, đồng thời lồng ghép giới trong các chương trình phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình. Các cấp Hội đã vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng địa bàn, qua đó hình thành nhiều mô hình kinh tế do phụ nữ làm chủ, phát huy hiệu quả tích cực tại cộng đồng.

Nổi bật là các mô hình như nhóm nghề làm bánh truyền thống phường Cao Lãnh; tổ liên kết sản xuất bột gạo phường Sa Đéc; tổ hợp tác trồng sen kết hợp du lịch sinh thái ở xã Tháp Mười; phụ nữ làm sản phẩm OCOP từ bưởi da xanh xã Lai Vung; tổ hợp tác đan lục bình xã Cái Bè; tổ liên kết tiêu thụ rau màu tại xã Chợ Gạo; mô hình khởi nghiệp từ nông sản sạch tại phường Mỹ Tho; tổ hợp tác trồng khóm tại xã Tân Phước 1, xã Tân Phước 2, xã Tân Phước 3…

Sự lan tỏa từ các mô hình nêu trên đã khẳng định vai trò, vị thế của phụ nữ trong chuỗi giá trị kinh tế cộng đồng; đồng thời, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội có lồng ghép giới, tạo nền tảng bền vững để xây dựng tổ chức Hội và tổ chức Đảng tại cơ sở ngày càng vững mạnh.

Công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế ở Đồng Tháp không thể tách rời vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp. Việc đưa nội dung phát triển kinh tế nữ vào nghị quyết chi bộ, chương trình hành động của đảng ủy, gắn với chỉ tiêu “dân vận khéo” là một hướng đi hiệu quả, mang tính bền vững.

Song song đó, sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội Liên hiệp Phụ nữ với các ngành giúp phụ nữ tiếp cận vốn, được đào tạo nghề, chuyển giao khoa học – kỹ thuật, từ đó hình thành những hạt nhân kinh tế nữ tiêu biểu tại cộng đồng. Đây chính là nguồn để giới thiệu, bồi dưỡng phát triển đảng viên nữ ở các mô hình sản xuất – kinh doanh.

Từ những kết quả nêu trên, để việc hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế thực sự trở thành động lực thúc đẩy kinh tế địa phương và góp phần xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh từ cơ sở, cần tập trung triển khai đồng bộ một số giải pháp mang tính chiến lược.

Đó là lồng ghép giới vào quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt trong chương trình phát triển kinh tế tập thể, OCOP và khởi nghiệp nông nghiệp; đẩy mạnh hỗ trợ chuyển đổi số cho phụ nữ, tổ chức các lớp tập huấn về kinh doanh online, thương mại điện tử, xây dựng thương hiệu – bao bì sản phẩm.

Cùng với đó là phát triển các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã do phụ nữ quản lý, nhất là trong lĩnh vực đặc sản địa phương, chế biến nông sản, du lịch cộng đồng. Đồng thời, tăng cường phối hợp liên ngành trong quản lý, hỗ trợ, giám sát việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn: Vốn tín dụng chính sách, vốn từ các đề án của các tổ chức chính trị – xã hội, vốn khởi nghiệp.

Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế tập thể, tư nhân, hộ gia đình không chỉ là giải pháp giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế, mà còn là nội dung thiết thực trong công tác xây dựng Đảng ở cơ sở. Tại Đồng Tháp, khi tổ chức Đảng mạnh, chính quyền đồng hành, Hội Liên hiệp Phụ nữ chủ động, thì phụ nữ sẽ là lực lượng xung kích, góp phần đưa quê hương ngày càng phát triển, văn minh và bền vững.

]]>
Xã Yên Bình đặt mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa phía Tây Nam tỉnh trước năm 2030 https://doanhnhansaoviet.com/xa-yen-binh-dat-muc-tieu-tro-thanh-trung-tam-kinh-te-van-hoa-phia-tay-nam-tinh-truoc-nam-2030/ Mon, 06 Oct 2025 02:19:51 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/xa-yen-binh-dat-muc-tieu-tro-thanh-trung-tam-kinh-te-van-hoa-phia-tay-nam-tinh-truoc-nam-2030/

Ngày 21/7, tại Hội trường Trung tâm Truyền thông và Văn hóa xã Yên Bình, tỉnh Lào Cai, Đại hội điểm Đảng bộ xã Yên Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã diễn ra phiên chính thức. Sự kiện này có sự tham dự của 170 đại biểu đại diện cho gần 2.200 đảng viên thuộc 66 chi, Đảng bộ trực thuộc.

Ông Trần Lưu Quang, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tặng hoa chúc mừng đại hội.
Ông Trần Lưu Quang, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tặng hoa chúc mừng đại hội.

Ông Trần Lưu Quang – Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương đã phát biểu tại Hội nghị: Yên Bình là một xã mới, mới về tổ chức hành chính, mới về mô hình phát triển, nhưng không mới về truyền thống đoàn kết, tinh thần dám nghĩ, dám làm của cán bộ và người dân nơi đây.

Trong 5 năm qua, dù còn nhiều khó khăn, nhưng xã Yên Bình vẫn giữ được nhịp phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 8-9%/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn dưới 4%; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng dịch vụ, công nghiệp. Lĩnh vực nông, lâm, thủy sản tiếp tục giữ vai trò nền tảng với nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, sản phẩm chủ lực, từng bước hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp hữu cơ, thủy sản ở Thác Bà đã xây dựng được thương hiệu địa phương.

Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng gấp đôi, thu nhập bình quân đạt 68,5 triệu đồng/người/năm; toàn bộ 22/22 thôn đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 10 thôn đạt chuẩn kiểu mẫu. Công tác phát triển Đảng có nhiều đột phá với 214 đảng viên mới được kết nạp, tăng 127% so với giai đoạn trước.

Đặc biệt, đây là địa phương 100% thôn đạt chuẩn Nông thôn mới. Trong đó, nhiều thôn đạt chuẩn kiểu mẫu. Hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư đồng bộ hơn, giao thông, điện chiếu sáng, công trình văn hóa, chợ, trường học… góp phần làm thay đổi rõ rệt diện mạo nông thôn và đô thị.

Không dừng ở phát triển kinh tế, Yên Bình còn chú trọng chăm lo các lĩnh vực an sinh xã hội, giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. 100% trường học đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, trong đó có 60% đạt mức độ 2. Các phong trào văn hóa – văn nghệ, thể dục thể thao phát triển mạnh mẽ, góp phần nâng cao chất lượng đời sống tinh thần và chỉ số hạnh phúc của người dân.

Những thành quả quan trọng đó là động lực, tiền đề để đưa xã Yên Bình tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn tới. Yên Bình được chọn là Đại hội điểm cấp xã không chỉ là vinh dự mà còn là trách nhiệm.

Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Yên Bình lần thứ I xác định phương châm hành động: ‘Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Sáng tạo – Phát triển’, thể hiện quyết tâm chính trị cao trong giai đoạn mới. Mục tiêu chiến lược đến năm 2030 được đặt ra là xây dựng Yên Bình trở thành xã phát triển toàn diện, trung tâm kinh tế, văn hóa, dịch vụ phía Tây Nam của tỉnh, có kết cấu hạ tầng hiện đại, xã hội văn minh, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa.

Một số chỉ tiêu trọng điểm đến năm 2030 bao gồm: Thu ngân sách đạt 550 tỷ đồng/năm, thu nhập bình quân 80 triệu đồng/người/năm, đón 800.000 lượt khách du lịch/năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 87% (trong đó 60% có văn bằng, chứng chỉ), 100% trường học đạt chuẩn quốc gia, xã đạt chuẩn nông thôn mới, chỉ số hạnh phúc của người dân đạt 75%.

Ba đột phá chiến lược được xác định gồm: Phát triển hạ tầng đô thị và công nghiệp sạch: Xây dựng cụm công nghiệp, khu nhà ở xã hội, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật – xã hội gắn với các trục giao thông liên vùng. Phát triển du lịch sinh thái hồ Thác Bà, khai thác lợi thế cảnh quan, mặt nước và bản sắc văn hóa để phát triển du lịch cộng đồng, nghỉ dưỡng, xây dựng thương hiệu du lịch Yên Bình. Thúc đẩy chuyển đổi số, hướng tới xã thông minh, số hóa công vụ, ứng dụng công nghệ trong giáo dục, y tế, hành chính công, phát triển kinh tế số.

Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương đề nghị, sau Đại hội này, Yên Bình cần nhận diện đúng lợi thế và thách thức trong bối cảnh mới. Nhìn rõ mình đang có gì và đang thiếu gì. Từ đó, làm cho đúng, cho hiệu quả để giúp địa phương đi đúng hướng, phát triển hơn nữa.

Xã Yên Bình tuy mới, nhưng nền móng đã có. Bài toán bây giờ là phát triển đột phá, bền vững và hài hòa, ông Trần Lưu Quang – Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhận định.

Ngoài ra, cần đẩy nhanh chuyển đổi số, hiện đại hóa quản trị xã bởi chuyển đổi số là bắt buộc. Không phải vì ai bắt, mà vì nếu không làm thì tụt hậu. Bí thư Trung ương Đảng đề nghị xã Yên Bình mạnh dạn triển khai mô hình ‘chính quyền số – kinh tế số – xã hội số’ từ cấp xã.

Đây không phải khẩu hiệu mà phải được hiện thực hóa bằng các bước đi cụ thể: số hóa quy trình công vụ, phổ cập kỹ năng số cho cộng đồng (‘bình dân học vụ số’), thúc đẩy thanh toán không tiền mặt, dịch vụ công trực tuyến và quản trị dữ liệu công khai, minh bạch.

Mô hình ‘xã thông minh – chính quyền phục vụ’ cần được hiện thực hóa bằng chính sự gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt nhất. Không nói suông – Đảng bộ chúng ta phải bàn cách, phải làm được, làm thật thông qua công nghệ.

Đại hội Đảng bộ xã Yên Bình lần thứ I không chỉ là dịp tổng kết chặng đường đã qua mà còn là thời điểm khơi dậy khát vọng phát triển, xác lập quyết tâm mới cho chặng đường phía trước. Với nền tảng vững chắc, sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, Yên Bình hoàn toàn có cơ sở để hiện thực hóa mục tiêu trở thành một xã phát triển kiểu mẫu vào năm 2030.

]]>
Nghĩa Đô trồng dưa leo thoát khó khăn về đất và nước tưới https://doanhnhansaoviet.com/nghia-do-trong-dua-leo-thoat-kho-khan-ve-dat-va-nuoc-tuoi/ Sat, 04 Oct 2025 05:50:31 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/nghia-do-trong-dua-leo-thoat-kho-khan-ve-dat-va-nuoc-tuoi/

Ở xã Nghĩa Đô, tỉnh Lào Cai, một hướng đi mới cho nông nghiệp địa phương đã được nhiều phụ nữ tìm ra bằng cách chuyển đổi sang trồng dưa leo theo mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sự thay đổi này không chỉ giúp họ ổn định việc làm mà còn nâng cao thu nhập một cách đáng kể.

Đóng gói dưa để xuất đi
Đóng gói dưa để xuất đi

Trên cánh đồng dưa leo xanh mướt nằm dọc bờ suối Nậm Luông, gia đình chị Ma Thị Xiêm ở thôn Nà Luông, xã Nghĩa Đô, đang tất bật với công việc thu hoạch dưa để kịp giao hàng vào cuối buổi chiều. Với gần 4 sào dưa, gia đình chị phải huy động nhiều lao động và nhờ thêm người thân hỗ trợ thu hoạch theo hình thức đổi công, thì mới kịp tiến độ. Đây là năm thứ 2 gia đình chị tham gia trồng dưa leo theo mô hình liên kết. Nhờ tích lũy được nhiều kinh nghiệm trồng và chăm sóc, ruộng dưa của gia đình chị có chất lượng khá tốt.

Chăm sóc dưa leo
Chăm sóc dưa leo

Gia đình anh Hoàng Văn Điệp ở thôn Bản Kem cũng tham gia trồng 2,5 sào dưa. Dù mới bắt đầu cho thu hoạch, anh Điệp tự tin rằng năng suất của gia đình anh năm nay sẽ cao hơn năm ngoái. Nguyên nhân là do gia đình anh đã có nhiều kinh nghiệm chăm sóc hơn, cây sinh trưởng tốt hơn, tỷ lệ đậu quả cao hơn. Đợt thu hoạch đầu tiên đã mang về cho gia đình anh Điệp 700 nghìn đồng với 2 tạ dưa, giá bán 3,5 nghìn đồng/kg. Dự kiến với 2,5 sào dưa, năm nay gia đình anh sẽ có sản lượng khoảng 5 tấn quả. Nếu giá cả ổn định, gia đình anh Điệp sẽ có một năm thu hoạch thành công với mô hình canh tác mới này.

Cánh đồng dưa leo ở xã Nghĩa Đô
Cánh đồng dưa leo ở xã Nghĩa Đô

Mô hình liên kết trồng dưa leo tại xã Nghĩa Đô do Công ty TNHH Dưa leo quê vùng miền phối hợp với địa phương triển khai. Xã Nghĩa Đô có 48 hộ dân tham gia với tổng diện tích trên 5,2ha tại các thôn Mường Kem, Nà Luông, Bản Hón, Bản Hốc. Các gia đình tham gia mô hình sẽ được cung cấp giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc và các biện pháp phòng trừ sâu bệnh. Công ty cũng cam kết thu mua sản phẩm với mức giá linh hoạt từ 2.000 – 15.000 đồng/kg và đặc biệt là thu mua dưa ngay tại ruộng khi bà con thu hoạch.

Bà Nhữ Thị Tâm, Phó Chủ tịch UBND xã Nghĩa Đô, cho biết: Ưu điểm của mô hình trồng dưa liên kết này là bà con có thể tận dụng những diện tích không thể cấy lúa, những diện tích không chủ động nguồn nước hoặc thường xuyên bị ngập úng cục bộ để trồng dưa chuột. Việc lên luống cao không chỉ giúp tận dụng được những quỹ đất trũng mà vẫn đảm bảo đủ nước tưới tiêu, giúp cây dưa chuột phát triển, sinh trưởng tốt. Dưa chuột là cây dễ trồng, dễ chăm sóc, có thời gian sinh trưởng ngắn. Chỉ sau hơn một tháng trồng, dưa đã bắt đầu cho thu hoạch. Việc thu hoạch được thực hiện thành nhiều lứa khác nhau, rải vụ, kéo dài khoảng 30 đến 45 ngày. Theo ước tính, 1 sào dưa có thể thu hoạch khoảng 50kg/ngày.

Với thành công bước đầu từ mô hình trồng dưa liên kết, cấp ủy và chính quyền xã Nghĩa Đô đang tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động bà con nhân dân mở rộng thêm diện tích trồng dưa. Cùng với đó, xã sẽ tiếp tục củng cố mối liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm, nhằm đảm bảo đầu ra ổn định và nâng cao thu nhập bền vững cho người dân. Mô hình này không chỉ giúp bà con thoát nghèo mà còn mở ra hướng đi mới cho nền nông nghiệp địa phương, biến những diện tích đất khó khăn thành nguồn lợi kinh tế tiềm năng, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn ở xã Nghĩa Đô.

]]>
Xã Yên Định bứt phá phát triển với tiềm năng kinh tế trọng điểm https://doanhnhansaoviet.com/xa-yen-dinh-but-pha-phat-trien-voi-tiem-nang-kinh-te-trong-diem/ Fri, 03 Oct 2025 18:49:59 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/xa-yen-dinh-but-pha-phat-trien-voi-tiem-nang-kinh-te-trong-diem/

Ngày 10/4, tỉnh Thanh Hóa đã công bố quyết định thành lập xã Yên Định mới trên cơ sở nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Quán Lào và các xã Định Long, Định Liên, Định Tăng. Với tổng diện tích 29,42 km2 và dân số hơn 38.500 người, xã Yên Định trở thành một trong những xã trọng điểm của tỉnh.

Sau khi hợp nhất, Đảng bộ xã Yên Định có 65 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc và gần 2.300 đảng viên. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình cải tổ bộ máy và nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân, tạo nền tảng cho phát triển bền vững.

Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các xã cũ đã đoàn kết, chung sức và nỗ lực phấn đấu thực hiện nghị quyết đại hội, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao, với tốc độ tăng tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2021-2025 đạt 11,82%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2025 ước đạt 85,81 triệu đồng/người, gấp 1,66 lần so với năm 2020.

Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt kết quả nổi bật với 1 xã được công nhận đạt chuẩn NTM kiểu mẫu, 2 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và thị trấn Quán Lào đạt chuẩn đô thị văn minh. Xã đã khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển công nghiệp – xây dựng, đóng góp lớn vào tăng trưởng giá trị sản phẩm của xã.

Giai đoạn 2021-2025, xã đã đầu tư xây dựng hơn 300 công trình với vốn ngân sách Nhà nước hơn 900 tỷ đồng. Hạ tầng thương mại, dịch vụ được quan tâm đầu tư nâng cấp, một số trung tâm thương mại, siêu thị lớn đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, thu hút 4 dự án FDI với tổng mức đầu tư 2.910 tỷ đồng.

Đặc biệt, xã đã thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, với Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ xã cam kết đồng hành, lắng nghe và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong từng bước chuyển đổi để đảm bảo ổn định và phát triển bền vững.

Đón vận hội mới, bứt phá mạnh mẽ, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Yên Định xác định những nhiệm vụ trọng tâm, đột phá trong giai đoạn tới. Đó là tiếp tục giữ vững, củng cố, vun đắp sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng, chuyên sâu, bền vững.

Xã sẽ chú trọng quy hoạch, định hướng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm dựa trên lợi thế sẵn có của xã. Coi phát triển công nghiệp – xây dựng là đột phá, thương mại, dịch vụ là mũi nhọn; đồng thời chú trọng chuyển dịch cơ cấu lao động, hỗ trợ người dân khởi nghiệp, phát triển sinh kế bền vững đi đôi với đảm bảo an sinh xã hội.

Với phương châm ‘Đoàn kết – Dân chủ – Trách nhiệm – Sáng tạo – Phát triển’, Đảng bộ xã Yên Định đề ra 11 chỉ tiêu về kinh tế, trong đó phấn đấu tốc độ tăng tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn bình quân hằng năm đạt 12% trở lên, thu nhập bình quân đầu người đến năm 2030 đạt 121 triệu đồng trở lên.

Để thực hiện đạt kết quả cao, Đảng bộ xã đề ra các giải pháp trọng tâm cho từng chỉ tiêu, từng nhiệm vụ. Trong đó ưu tiên các giải pháp mang tính đột phá, trọng tâm của từng lĩnh vực. Ưu tiên giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, Nhân dân quan tâm.

]]>
Quỹ tín dụng nhân dân: Động lực phát triển kinh tế nông thôn bền vững https://doanhnhansaoviet.com/quy-tin-dung-nhan-dan-dong-luc-phat-trien-kinh-te-nong-thon-ben-vung/ Fri, 03 Oct 2025 03:05:16 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/quy-tin-dung-nhan-dan-dong-luc-phat-trien-kinh-te-nong-thon-ben-vung/

Trong 30 năm qua, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho khu vực nông thôn và các địa bàn khó khăn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương và giảm nghèo bền vững. Tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đã đạt gần 139.000 tỷ đồng, trong đó hơn 90% tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và hộ kinh doanh cá thể – những đối tượng thường bị các ngân hàng thương mại bỏ qua.

Ngày 3/10: Già cà phê tăng mạnh, hồ tiêu tiếp tục giảm sâu
Ngày 3/10: Già cà phê tăng mạnh, hồ tiêu tiếp tục giảm sâu
Ra mắt Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cục Dự trữ Nhà nước nhiệm kỳ 2025 -2030
Ra mắt Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cục Dự trữ Nhà nước nhiệm kỳ 2025 -2030

Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong hệ sinh thái tài chính vi mô và đang trở thành mắt xích quan trọng trong tiến trình phát triển tài chính toàn diện quốc gia. Với lợi thế là sự hiểu biết về địa bàn và sát thực tiễn đời sống của thành viên, các quỹ tín dụng nhân dân đã thể hiện khả năng phục hồi nhanh chóng và duy trì thanh khoản ổn định trong bối cảnh kinh tế – tài chính toàn cầu nhiều biến động.

Ngành Tài chính nỗ lực thúc đẩy mô hình chính quyền 2 cấp vận hành ổn định
Ngành Tài chính nỗ lực thúc đẩy mô hình chính quyền 2 cấp vận hành ổn định
Quảng Ninh sử dụng hiệu quả, tiết kiệm vốn đầu tư công
Quảng Ninh sử dụng hiệu quả, tiết kiệm vốn đầu tư công

Đến cuối năm 2024, toàn hệ thống có 1.177 quỹ tín dụng nhân dân, hoạt động trên địa bàn 57 tỉnh/thành phố với 1.953.510 thành viên. Vốn điều lệ của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân không ngừng tăng lên, đạt 7.778,2 tỷ đồng, tăng 54% so với cuối năm 2020 và tăng 527% so với cuối năm 2010.

ACB duy trì kinh doanh vàng miếng cũ, để ngỏ khả năng tái khởi động sản xuất
ACB duy trì kinh doanh vàng miếng cũ, để ngỏ khả năng tái khởi động sản xuất

Hoạt động cho vay của các quỹ tín dụng nhân dân tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và các hoạt động dịch vụ thiết thực nhằm phát triển kinh tế địa phương. Các quỹ tín dụng nhân dân đã kinh doanh có lãi, thu nhập bù đắp được chi phí, cho thấy kết quả khả quan và đáng ghi nhận.

Đơn giản hóa tối đa chế độ kế toán để hộ kinh doanh kê khai, nộp thuế
Đơn giản hóa tối đa chế độ kế toán để hộ kinh doanh kê khai, nộp thuế

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân vẫn tồn tại một số hạn chế. Mô hình quản trị ở nhiều quỹ còn mang tính tự phát, vận hành theo thói quen và tập quán địa phương, thiếu tính chuyên nghiệp. Do đó, việc tái cấu trúc mô hình và nâng cao năng lực quản trị là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống.

Hợp tác Việt - Pháp thúc đẩy tài chính xanh cho phát triển bền vững
Hợp tác Việt – Pháp thúc đẩy tài chính xanh cho phát triển bền vững

Để hệ thống quỹ tín dụng nhân dân hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) cần triển khai chiến lược phát triển dựa trên ba trụ cột. Thứ nhất, nâng cao năng lực điều phối hệ thống để tăng cường sự liên kết và giám sát giữa các quỹ tín dụng nhân dân. Thứ hai, thúc đẩy chuyển đổi số một cách thiết thực và phù hợp để giảm chi phí và rủi ro công nghệ. Thứ ba, tái cấu trúc mô hình hỗ trợ thành viên để tăng cường năng lực quản trị và tài chính cho các quỹ tín dụng nhân dân.

Quảng Ninh tăng cường phòng ngừa tội phạm đánh bạc trên không gian mạng
Quảng Ninh tăng cường phòng ngừa tội phạm đánh bạc trên không gian mạng

Co-opBank cần đóng vai trò đối tác chiến lược, đồng hành cùng các quỹ tín dụng nhân dân thông qua mô hình đào tạo và tư vấn chuyên sâu. Việc này sẽ giúp các quỹ tín dụng nhân dân nâng cao năng lực quản trị và tài chính, đồng thời mở rộng không gian phát triển và tạo lập hệ sinh thái bền vững cho tài chính vi mô tại Việt Nam. Thông qua đó, Co-opBank có thể hỗ trợ các quỹ tín dụng nhân dân phát triển bền vững, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế và giảm nghèo bền vững.

Dự trữ tiền tệ toàn cầu vượt 12.000 tỷ USD lần đầu tiên kể từ năm 2021
Dự trữ tiền tệ toàn cầu vượt 12.000 tỷ USD lần đầu tiên kể từ năm 2021
]]>
Phát triển kinh tế tư nhân: Cần gỡ nút thắt chính sách và nâng cao năng lực doanh nhân https://doanhnhansaoviet.com/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-can-go-nut-that-chinh-sach-va-nang-cao-nang-luc-doanh-nhan/ Fri, 03 Oct 2025 01:56:18 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-can-go-nut-that-chinh-sach-va-nang-cao-nang-luc-doanh-nhan/

Kinh tế tư nhân Việt Nam đang đối mặt với những thách thức và hạn chế đáng kể trong hơn một thập kỷ qua. Các chuyên gia từ Đại học Kinh tế quốc dân đã chỉ ra rằng những hạn chế này bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết và thống nhất về vai trò và tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân. Hệ thống chính sách hiện hành còn nhiều hạn chế và bất công, gây khó khăn cho sự phát triển của kinh tế tư nhân so với các khu vực kinh tế khác.

Từng bước gỡ nút thắt, tạo động lực phát triển hiệu quả kinh tế tư nhân. (Ảnh: PV)
Từng bước gỡ nút thắt, tạo động lực phát triển hiệu quả kinh tế tư nhân. (Ảnh: PV)

Theo các chuyên gia, lực lượng kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn phân mảnh và thiếu một mô hình phù hợp để kết nối các bộ phận cấu thành. Hơn nữa, doanh nhân Việt Nam hiện đang thiếu những kỹ năng và đặc tính cần thiết để thích nghi với bối cảnh kinh tế hiện đại và tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Điều này đòi hỏi sự thay đổi và cải thiện từ cả góc độ chính sách và nhận thức.

Để khắc phục những hạn chế trên, các chuyên gia đã đưa ra một số khuyến nghị quan trọng. Thứ nhất, cần có một tư duy mới và cách nhìn nhận toàn diện về khu vực kinh tế tư nhân, trong đó nhấn mạnh vai trò chủ đạo của người Việt nhưng cũng cần lưu ý đến bộ phận kinh tế tư nhân Việt Nam ở nước ngoài. Sự bao gồm và công bằng trong chính sách là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này.

Thứ hai, cần đứng trên quan điểm phát triển bao trùm để tháo gỡ những nút thắt về thể chế và chính sách trong phát triển kinh tế tư nhân. Điều này đòi hỏi việc hoàn thiện chính sách để tạo điều kiện bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Sự công bằng và minh bạch trong chính sách sẽ giúp tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh và khuyến khích sự phát triển.

Thứ ba, cần hoàn thiện các mô hình gắn kết lực lượng kinh tế tư nhân của người Việt Nam. Thông qua việc liên kết các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong nước và tổ chức liên kết doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân trong nước, Việt Nam có thể tạo ra chuỗi giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thứ tư, phát triển đội ngũ doanh nhân Việt đáp ứng được yêu cầu mới của nền kinh tế là nhiệm vụ quan trọng. Điều này bao gồm việc triển khai các chương trình đào tạo doanh nhân, hỗ trợ tài chính và chính sách khuyến khích doanh nhân tham gia đào tạo. Doanh nhân đóng vai trò then chốt trong việc dẫn dắt và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Cuối cùng, phát triển tinh thần doanh nhân và văn hóa kinh doanh lành mạnh là yếu tố cơ bản. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc xây dựng và phổ biến bộ Quy tắc đạo đức kinh doanh cho doanh nhân Việt Nam. Văn hóa kinh doanh lành mạnh và tinh thần doanh nhân tích cực sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của kinh tế tư nhân Việt Nam trong tương lai.

Tóm lại, việc phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam đòi hỏi sự nỗ lực và phối hợp từ nhiều phía, bao gồm cả việc hoàn thiện chính sách, nâng cao năng lực doanh nhân, và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh. Với những giải pháp đồng bộ và toàn diện, kinh tế tư nhân Việt Nam có tiềm năng trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

]]>
Tuyên Quang – Miền đất chè đẹp như phim, dân khá giả nhờ chè https://doanhnhansaoviet.com/tuyen-quang-mien-dat-che-dep-nhu-phim-dan-kha-gia-nho-che/ Thu, 02 Oct 2025 21:35:54 +0000 https://doanhnhansaoviet.com/tuyen-quang-mien-dat-che-dep-nhu-phim-dan-kha-gia-nho-che/

Tỉnh Tuyên Quang,ตั้งอยู่ ở vùng Đông Bắc của Việt Nam, đã trải qua một quá trình hợp nhất từ tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang cũ. Ngày nay, tỉnh Tuyên Quang đang nổi lên như một trong những địa phương có diện tích chè lớn nhất cả nước. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, tỉnh Tuyên Quang đã trở thành một trong những vùng chè trọng điểm của Việt Nam.

Tuyên Quang – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, cây chè không chỉ là hình ảnh thân thuộc ở những làng quê mà còn là "cây xóa đói, giảm nghèo", mang lại nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân nơi đây. Ảnh: Mùa Xuân.
Tuyên Quang – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, cây chè không chỉ là hình ảnh thân thuộc ở những làng quê mà còn là “cây xóa đói, giảm nghèo”, mang lại nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân nơi đây. Ảnh: Mùa Xuân.
Những luống chè xanh tươi dài ngút ngàn, san sát nhau, uốn lượn theo những sườn đồi, được nông dân chăm sóc tỉ mỉ, cho năng suất và chất lượng cao. Ảnh: Mùa Xuân.
Những luống chè xanh tươi dài ngút ngàn, san sát nhau, uốn lượn theo những sườn đồi, được nông dân chăm sóc tỉ mỉ, cho năng suất và chất lượng cao. Ảnh: Mùa Xuân.
Với hơn 28.000 ha chè, Tuyên Quang tự hào là một trong những vựa chè lớn nhất cả nước. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những đồi chè Shan tuyết cổ thụ mà còn có các giống chè lai năng suất cao, tất cả đều góp phần mang lại cuộc sống ấm no cho bà con nông dân. Ảnh: Mùa Xuân.
Với hơn 28.000 ha chè, Tuyên Quang tự hào là một trong những vựa chè lớn nhất cả nước. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những đồi chè Shan tuyết cổ thụ mà còn có các giống chè lai năng suất cao, tất cả đều góp phần mang lại cuộc sống ấm no cho bà con nông dân. Ảnh: Mùa Xuân.

Việc trồng chè đã giúp nhiều hộ dân tại đây vươn lên thoát nghèo và làm giàu trên mảnh đất quê hương của mình. Người dân Tuyên Quang đã áp dụng các kỹ thuật trồng và chăm sóc chè tiên tiến, giúp tăng năng suất và chất lượng chè. Sự phát triển của ngành chè không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân mà còn góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế địa phương.

Hiện nay, nhiều diện tích chè của tỉnh Tuyên Quang đã được cấp chứng nhận VietGAP hoặc sản xuất theo hướng hữu cơ. Cùng với đó, tỉnh đã hỗ trợ thành lập các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác liên kết sản xuất và tiêu thụ chè, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và tạo việc làm ổn định cho hàng chục nghìn lao động. Ảnh: Mùa Xuân.
Hiện nay, nhiều diện tích chè của tỉnh Tuyên Quang đã được cấp chứng nhận VietGAP hoặc sản xuất theo hướng hữu cơ. Cùng với đó, tỉnh đã hỗ trợ thành lập các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác liên kết sản xuất và tiêu thụ chè, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và tạo việc làm ổn định cho hàng chục nghìn lao động. Ảnh: Mùa Xuân.
Các doanh nghiệp, HTX đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho hàng trăm hộ dân; cung cấp giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật và thu mua chè búp tươi. Sản phẩm chè búp khô được đóng gói, gắn tem truy xuất nguồn gốc và đưa vào siêu thị, sàn thương mại điện tử, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Ảnh: Mùa Xuân.
Các doanh nghiệp, HTX đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho hàng trăm hộ dân; cung cấp giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật và thu mua chè búp tươi. Sản phẩm chè búp khô được đóng gói, gắn tem truy xuất nguồn gốc và đưa vào siêu thị, sàn thương mại điện tử, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Ảnh: Mùa Xuân.

Cây chè đã gắn bó với đời sống của người dân Tuyên Quang qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là cây trồng chủ lực, mang lại thu nhập ổn định mà còn là niềm tự hào, nét văn hóa đặc trưng của địa phương. Nhờ những đồi chè xanh ngát, cuộc sống của bà con nơi đây ngày càng được cải thiện, nhiều gia đình đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Ảnh: Mùa Xuân.
Cây chè đã gắn bó với đời sống của người dân Tuyên Quang qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là cây trồng chủ lực, mang lại thu nhập ổn định mà còn là niềm tự hào, nét văn hóa đặc trưng của địa phương. Nhờ những đồi chè xanh ngát, cuộc sống của bà con nơi đây ngày càng được cải thiện, nhiều gia đình đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Ảnh: Mùa Xuân.
Để nâng cao năng suất, chất lượng chè, người dân xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang (xã Tân Trào mới được thành lập trên cơ sở sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các xã Kim Quan, huyện Yên Sơn và xã Trung Yên, Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang cũ) còn áp dụng công nghệ tưới phun tự động. Ảnh: Mùa Xuân.
Để nâng cao năng suất, chất lượng chè, người dân xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang (xã Tân Trào mới được thành lập trên cơ sở sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các xã Kim Quan, huyện Yên Sơn và xã Trung Yên, Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang cũ) còn áp dụng công nghệ tưới phun tự động. Ảnh: Mùa Xuân.

Đến nay, tỉnh Tuyên Quang đã có hàng nghìn ha chè được trồng và chăm sóc theo tiêu chuẩn. Các hộ dân tại đây đã được hỗ trợ về kỹ thuật, vốn và thị trường để phát triển ngành chè. Việc đẩy mạnh việc trồng và phát triển cây chè đã giúp tỉnh Tuyên Quang nâng cao chất lượng và sản lượng chè, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thu nhập cho người dân.

Nhờ chuyển đổi tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật và liên kết tiêu thụ sản phẩm, cây chè Tuyên Quang đã và đang mang lại cuộc sống ấm no cho người nông dân, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần từng bước xây dựng quê hương Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp. Ảnh: Mùa Xuân.
Nhờ chuyển đổi tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật và liên kết tiêu thụ sản phẩm, cây chè Tuyên Quang đã và đang mang lại cuộc sống ấm no cho người nông dân, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần từng bước xây dựng quê hương Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp. Ảnh: Mùa Xuân.
Chị Cao Thị Mười, phường Mỹ Lâm, tỉnh Tuyên Quang chia sẻ: Gia đình tôi có 6.000m2 chè được trồng từ những năm 1999. Trung bình mỗi năm thu về hơn 10 tấn chè búp tươi, với giá bán 4,5 nghìn đồng/kg. Nhờ trồng chè, gia đình tôi đã có cuộc sống khấm khá hơn. Ảnh: Mùa Xuân.
Chị Cao Thị Mười, phường Mỹ Lâm, tỉnh Tuyên Quang chia sẻ: Gia đình tôi có 6.000m2 chè được trồng từ những năm 1999. Trung bình mỗi năm thu về hơn 10 tấn chè búp tươi, với giá bán 4,5 nghìn đồng/kg. Nhờ trồng chè, gia đình tôi đã có cuộc sống khấm khá hơn. Ảnh: Mùa Xuân.

Tuyên Quang – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, cây chè không chỉ là hình ảnh thân thuộc ở những làng quê mà còn là "cây xóa đói, giảm nghèo", mang lại nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân nơi đây. Ảnh: Mùa Xuân.
Tuyên Quang – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, cây chè không chỉ là hình ảnh thân thuộc ở những làng quê mà còn là “cây xóa đói, giảm nghèo”, mang lại nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân nơi đây. Ảnh: Mùa Xuân.
Bà Nguyễn Thị Vân, xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang cho biết: Gia đình tôi có khoảng 4 ha chè, trung bình mỗi ha thu về khoảng 15 tấn chè búp tươi. Nguồn thu từ cây chè đã giúp gia đình tôi có điều kiện xây dựng nhà cửa khang trang, đầu tư máy móc chế biến, cho con cái ăn học đến nơi đến chốn. Ảnh: Mùa Xuân.
Bà Nguyễn Thị Vân, xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang cho biết: Gia đình tôi có khoảng 4 ha chè, trung bình mỗi ha thu về khoảng 15 tấn chè búp tươi. Nguồn thu từ cây chè đã giúp gia đình tôi có điều kiện xây dựng nhà cửa khang trang, đầu tư máy móc chế biến, cho con cái ăn học đến nơi đến chốn. Ảnh: Mùa Xuân.

Trong tương lai, tỉnh Tuyên Quang sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc trồng và phát triển cây chè, nhằm nâng cao chất lượng và sản lượng chè. Tỉnh sẽ tiếp tục hỗ trợ người dân về kỹ thuật, vốn và thị trường để giúp họ phát triển ngành chè một cách bền vững. Với sự phát triển của ngành chè, tỉnh Tuyên Quang sẽ trở thành một trong những vùng chè hàng đầu của Việt Nam, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tại địa phương.

Tuyên Quang – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, cây chè không chỉ là hình ảnh thân thuộc ở những làng quê mà còn là "cây xóa đói, giảm nghèo", mang lại nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân nơi đây. Ảnh: Mùa Xuân.
Tuyên Quang – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, cây chè không chỉ là hình ảnh thân thuộc ở những làng quê mà còn là “cây xóa đói, giảm nghèo”, mang lại nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân nơi đây. Ảnh: Mùa Xuân.
Nhờ chuyển đổi tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật và liên kết tiêu thụ sản phẩm, cây chè Tuyên Quang đã và đang mang lại cuộc sống ấm no cho người nông dân, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần từng bước xây dựng quê hương Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp. Ảnh: Mùa Xuân.
Nhờ chuyển đổi tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật và liên kết tiêu thụ sản phẩm, cây chè Tuyên Quang đã và đang mang lại cuộc sống ấm no cho người nông dân, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần từng bước xây dựng quê hương Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp. Ảnh: Mùa Xuân.
Những đồi chè xanh mơn mởn phủ khắp các triền đồi, mang lại thu nhập ổn định cho nông dân Tuyên Quang. Ảnh: Mùa Xuân.
Những đồi chè xanh mơn mởn phủ khắp các triền đồi, mang lại thu nhập ổn định cho nông dân Tuyên Quang. Ảnh: Mùa Xuân.

Những đồi chè xanh mướt tại phường Mỹ Lâm, tỉnh Tuyên Quang (phường Mỹ Lâm mới được thành lập trên cơ sở nhập toàn bộ diện tích, quy mô dân số của các xã Mỹ Bằng thuộc huyện Yên Sơn và phường Mỹ Lâm, xã Kim Phú thuộc thành phố Tuyên Quang cũ) không chỉ là cảnh quan tuyệt đẹp mà còn là biểu tượng cho sự thịnh vượng của vùng đất này. Từ sáng sớm, khi những giọt sương đêm còn đọng trên lá, người nông dân lại cần mẫn lên đồi, thu hái từng búp chè non tươi. Trong làn sương sớm bảng lảng, hương chè thơm dịu dàng lan tỏa trong không khí đã tạo thêm cảm hứng cho một ngày làm việc hăng say và hiệu quả của những người nông dân. Ảnh: Mùa Xuân.
Những đồi chè xanh mướt tại phường Mỹ Lâm, tỉnh Tuyên Quang (phường Mỹ Lâm mới được thành lập trên cơ sở nhập toàn bộ diện tích, quy mô dân số của các xã Mỹ Bằng thuộc huyện Yên Sơn và phường Mỹ Lâm, xã Kim Phú thuộc thành phố Tuyên Quang cũ) không chỉ là cảnh quan tuyệt đẹp mà còn là biểu tượng cho sự thịnh vượng của vùng đất này. Từ sáng sớm, khi những giọt sương đêm còn đọng trên lá, người nông dân lại cần mẫn lên đồi, thu hái từng búp chè non tươi. Trong làn sương sớm bảng lảng, hương chè thơm dịu dàng lan tỏa trong không khí đã tạo thêm cảm hứng cho một ngày làm việc hăng say và hiệu quả của những người nông dân. Ảnh: Mùa Xuân.

Người dân Tuyên Quang đang kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng với ngành chè. Họ hy vọng rằng, với sự hỗ trợ của chính quyền và sự phát triển của ngành chè, họ sẽ có thể vươn lên thoát nghèo và làm giàu trên mảnh đất quê hương của mình. Tuyên Quang sẽ tiếp tục là một trong những địa phương có diện tích chè lớn nhất cả nước, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam.

Danh sách 10 phường trên cả nước có người vi phạm giao thông nhiều nhất, TP.HCM có tới 4 phường
Danh sách 10 phường trên cả nước có người vi phạm giao thông nhiều nhất, TP.HCM có tới 4 phường
Hai con chim khổng lồ lạ mắt bất ngờ xuất hiện giữa hồ nước ở Bắc Ninh là loài chim gì?
Hai con chim khổng lồ lạ mắt bất ngờ xuất hiện giữa hồ nước ở Bắc Ninh là loài chim gì?
Ông bố cục cằn như tôi bất ngờ thay đổi sau khi xem phim, tôi dũng cảm nói 1 câu khiến con trai ngỡ ngàng
Ông bố cục cằn như tôi bất ngờ thay đổi sau khi xem phim, tôi dũng cảm nói 1 câu khiến con trai ngỡ ngàng
]]>